![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 5)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.27_(1).jpg)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 5)
CẤM CẦN SA: MỘT KIỂM ĐỊNH ĐƠN GIẢN
Ảnh hưởng của những biện pháp cấm đoán đối với giá cả, hiệu lực và xu hướng tiêu thụ rượu cũng được áp dụng cho các loại ma túy bất hợp pháp như cần sa, cocaine và heroin. Cần sa (marijuana) là một loại cây trồng lâu đời, được trồng để bán, để làm thuốc và tiêu khiển. Thực chất, sau khi có Luật thuế cần sa (1937) nó mới trở thành bất hợp pháp. Trong những năm 1960, khi số người sử dụng cần sa vào mục đích tiêu khiển gia tăng đáng kể thì cần sa trở thành mối bận tâm chính của chính sách công ở Mĩ. Năm 1969, nguồn lực dành cho việc thực thi pháp luật liên bang về phòng chống ma túy đã gia tăng nhằm hạn chế việc nhập khẩu và bán các loại ma túy bất hợp pháp như cần sa và heroin. Trách nhiệm cấm đoán đã dẫn việc tăng ngân sách cho nhiều cơ quan liên bang, ví dụ như Hải quan, Cảnh sát biển, Cục Phòng chống Ma túy, Cục Điều tra Liên bang và Sở Thuế vụ. Hình 5 là ngân sách tổng hợp của các cơ quan này (dùng cho việc thực thi luật phòng chống ma túy) được sử dụng nhằm thể hiện những nỗ lực thực thi pháp luật liên bang.
Một trong những ảnh hưởng của nỗ lực thực thi pháp luật là làm tăng rủi ro cho việc cung cấp các loại ma túy bất hợp pháp. Mô hình lí thuyết-giá cả trên cơ sở sự thay đổi của giá tương đối do rủi ro tạo ra dự đoán sự tăng hiệu lực trung bình của các loại ma túy bất hợp pháp, ví dụ như cần sa. thông tin về hiệu lực của cần sa vì tính chất bất hợp pháp của thị trường, nhưng từ năm 1973 dữ liệu đã được Dự án Giám sát Hiệu lực – do Viện quốc gia về Lạm dụng Ma túy tài trợ – thu thập (xem ElSohly và Abel 1986). Có thể thấy rõ sự gia tăng hiệu lực trung bình của cần sa trong giai đoạn 1974-1984 trên Hình 6, nhưng tính chất phức tạp của thị trường này và sự hạn chế nghiêm trọng về dữ liệu không cho phép tiến hành một cuộc nghiên cứu thống kê chi tiết.
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa việc thực thi pháp luật và hiệu lực của cần sa, tôi đã sử dụng một phép hồi qui đơn giản, trong đó sử dụng toàn bộ ngân sách thực thi pháp luật phòng chống ma túy của những cơ quan liên bang được lựa chọn như là một biến số giải thích hiệu lực của cần sa. Tôi đã phát hiện ra là biến này có khả năng giải thích đáng kể trong việc mô tả những thay đổi về hiệu lực của cần sa (1973-1984). Hệ số của biến độc lập chỉ ra rằng sự gia tăng ngân sách thêm một triệu đô-la (năm 1972) sẽ dẫn đến sự gia tăng hiệu lực là 0,01%. Thống kê t có giá trị 11,4 chỉ ra rằng mối quan hệ rõ ràng này có ý nghĩa ở mức 1%. Chỉ số Rẻ chỉ rằng ngân sách liên bang dành cho việc ngăn chặn ma túy giúp giải thích 93% sự gia tăng hiệu lực quan sát được (F=129,8). Mặc dù cần phải công nhận rằng phép hồi qui đơn giản có một số vấn đề, ví dụ như hạn chế về mặt dữ liệu và lỗi xác định mô hình, nhưng những kết quả này vẫn chỉ ra rằng có ẩn điều gì đó, chứ không chỉ là sự bất thường của dữ liệu. Mặc dù kiểm định này không đưa ra được bằng chứng vững vàng nhưng nó vẫn tạo ra “những lập luận hợp lí về mối liên hệ giữa việc thực thi các biện pháp cấm đoán với giá tương đối và hiệu lực của cần sa.
NGOÀI CẦN XA
Ngoài cần xa, hiệu lực của nhiều loại ma túy bất hợp pháp, ví dụ như cocaine, cũng gia tăng và xuất hiện những loại cocaine mới, cực kì mạnh, ví dụ như loại ma túy gọi là "crack".
Một đặc điểm nữa của những biện pháp cấm đoán ma túy hiện nay là sự thay thế loại ma túy này bằng loại ma túy khác. Trong khi mỗi loại ma túy đều có một số tính chất độc đáo, thì phần lớn các loại ma túy bất hợp pháp lại có một số thuộc tính giống nhau. Do đó, những thay đổi về giá so sánh có thể khuyến khích người ta dùng những loại thuốc bất hợp pháp thay thế cho những loại có giá cao hơn. Ví dụ, Rottenberg (1968, 89n.) khẳng định rằng do giá cả mà người ta sẵn sàng dùng thuốc an thần thay thế cho cần sa.
Xu hướng gia tăng tiêu thụ cocaine trong thời gian gần đây, một phần, có thể là kết quả của việc thay đổi giá so sánh. Năm 1973 giá một gram cocaine tinh khiết là 410 đô-la, trong khi 1 cần sa là 0,63 đô-la (tỉ lệ 651: 1). Đến năm 1983, giá cocaine giảm còn 110 đô-la một gram, còn giá cần sa thì tăng lên thành 2,50 đô-la một gram (tỉ lệ còn 44:1). Thậm chí hiệu lực đã gia tăng của cần sa cũng không bù đắp sự sụt giảm đáng kể trong giá so sánh với cocaine (Cục Thống kê Tư pháp Bộ Tư pháp Mỹ
1985, 437).
Một khía cạnh quan trọng nữa của những biện pháp cấm đoán các loại ma túy hiện nay là sự hình thành những sản phẩm mới, có hiệu lực cao hơn. Cả những sản phẩm mới lẫn những loại ma túy đã có nhưng có hiệu lực cao hơn đều được sản xuất chủ yếu với các kỹ thuật và công nghệ có từ trước. Ví dụ, dùng những kỹ thuật hiện có có thể dễ dàng sản xuất được thuốc phiện tổng hợp. Thành phần hóa học của các loại ma túy cực mạnh này có thể được nhà cung cấp thay thế nhằm tránh bị trừng phạt (trong ngắn hạn) (xem Gallagher 1986). Rõ ràng là sự hiện diện của những loại ma túy cực mạnh và nguy hiểm, ví dụ như thuốc phiện tổng hợp, là kết quả của cấm đoán – chứ không phải của nhân tố công nghệ. Có công nghệ sản xuất các hoạt chất trong cần sa, THC (tetrahydrocannabinol), dưới dạng tinh khiết, nhưng hình phạt thì lại quá thấp, không thể biện minh cho chi phí.
Mối quan hệ nhân quả có thể có giữa những biện pháp cấm đoán và hiệu lực của ma túy là một trong những vấn đề phát sinh khi sử dụng những biện pháp cấm đoán như một công cụ của chính sách công. Nó cũng có thể giúp giải thích “nhận thức chung” cho rằng hút cần sa có thể dẫn đến nghiện heroin. Thay đổi giá so sánh có lợi cho các loại ma túy có hiệu lực cao sẽ dẫn người tiêu dùng chuyển từ cần sa sang cocaine và từ cocaine heroin. Trong trường hợp cực đoan nhất, những biện pháp cấm đoán, việc thực thi pháp luật và cơ cấu hình phạt có thể là những tác nhân quan trọng hơn là tính chất vật lí của ma túy trong việc xác định loại ma túy nào là nguy hiểm nhất.
Ví dụ, cấm đoán cần sa là những biện pháp cấm đoán mới nhất, áp đặt những hình phạt nhẹ nhàng nhất, và được cho là thị hành ít nghiêm ngặt nhất. Có những phương pháp có thể làm gia tăng hiệu lực trung bình của cần sa lên gấp năm lần. Trên thực tế, hoạt chất trong cần sa, chất THC, có thể được sản xuất bằng biện pháp hóa học ở dạng gần như tinh khiết, nhưng những phương pháp này hiện chưa kinh tế. Tuy nhiên, những phương pháp này có thể cô đặc 100 pound (1 pound = 453,59237 kg ND) cần sa trước khi cấm thành một chai cola 16 ounce (1 ounce=28,3495231 gram, ND). Người ta cho rằng uống một lượng như vậy là cực kì nguy hiểm, nếu không nói là sẽ chết. Người ta cũng có thể nghĩ rằng một sản phẩm như vậy, tức là sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ trong môi trường phi thị trường, sẽ nguy hiểm chẳng khác gì heroin. Ngược lại, trong số những biện pháp cấm đoán chủ yếu thì cấm heroin là cấm đoán lâu đời nhất, có những hình phạt nghiêm ngặt nhất và được cho là thực hiện nghiêm túc nhất so với qui mô của thị trường.
So với những sản phẩm hợp pháp trước đó thì các sản phẩm bị cấm kém hơn hẳn về chất lượng, nhưng hiệu lực lại cao hơn nhiều. Mức độ nghiêm khắc của hình phạt và sự quyết liệt của lực lượng thực thi cấm đoán còn có vai trò quyết định rất lớn đối với những nguy về cơ sức khỏe liên quan tới việc tiêu thụ ma túy bất hợp pháp. Những phát hiện này đặt ra câu hỏi căn bản về việc có nên áp dụng những biện pháp cấm đoán nhằm làm giảm lượng tiêu thụ của một sản phẩm hay không.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition