![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 4)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.24_(1).jpg)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 4)
HIỆU LỰC CỦA MA TÚY TRÊN THỊ TRƯỜNG BỊ CẤM ĐOÁN
Việc không có đủ số liệu đáng tin cậy liên quan đến thị trường bị cấm đoán làm cho việc kiểm định chặt chẽ bằng kinh tế lượng là bất khả thi. Tuy nhiên, lịch sử cho ta một số hình ảnh minh họa đáng suy ngẫm về hiệu lực của các sản phẩm trên những thị trường này. Ở đây xin trình bày hai sự kiện nổi bật: Luật cấm rượu và “cuộc chiến chống ma túy” trong giai đoạn hiện nay.
Hai sự kiện này cung cấp đầy đủ thông tin thể hiện các mối tương quan giữa cấm đoán, giá cả tương đối và hiệu lực, cũng như các mối tương quan giữa các thay đổi trong những nguồn lực thực thi pháp luật, giá cả tương đối và hiệu lực. Thông tin này minh họa sự thay đổi và cách tân sản phẩm trong giai đoạn cấm đoán. Trong phân tích hồi quy, khó đạt được ngay cả những mục tiêu này vì đơn giản là không có đầy đủ dữ liệu. Trong những trường hợp này, sử dụng các biến đại diện (proxy) cũng chẳng khác gì dùng bóng bàn thay cho trứng rùa trong thực đơn.
CẤM RƯỢU
Nghiên cứu về việc cấm rượu trong năm những 1920 bằng chứng thú vị và hữu ích về “việc vận chuyển rượu mạnh vào trong nước”. Trong giai đoạn Cấm Rượu, thông qua đạo luật Volstead, nhiều nguồn lực thi hành pháp luật đã được huy động nhằm ngăn chặn việc sản xuất, bán và tiêu thụ rượu. Lực lượng thực thi đã tạo ra những rủi ro cho các nhà cung cấp rượu, những rủi ro này đã có tác dụng rộng khắp đối với việc uống thế nào, uống ở đâu, khi nào và uống loại rượu nào.
Bảng 4 cho ta thông tin liên quan đến những cố gắng nhằm thực thi cấm đoán của liên bang1. Tổng chi tiêu đã tăng từ chưa đến 4 triệu đô-la trong nửa sau năm 1920 lên gần 45 triệu đô- la trong năm 1930. Ngân sách hàng năm của Cục Phòng Chống Rượu đã tăng gấp đôi trong thập kỷ này, tốc độ tăng trưởng nhanh nhất là từ năm 1920 đến năm 1925. Năm 1925, ngân sách của Cảnh sát biển đã được tăng cường nhằm thực thi Luật cấm rượu, với nguồn lực dành cho ngăn chặn và thực thi luật cấm gia tăng gấp đôi. Các chi phí gián tiếp, trong đó có những chi phí như chi phí cho tố tụng hình sự, cũng tăng trong suốt thập kỷ này.
Các khoản tiền phạt và chi phí ròng không liên quan đến mục đích xác định các nguồn lực thực thi pháp luật. Tuy nhiên, tiền phạt có cho thấy bằng chứng về tính hiệu quả của các nguồn lực thực thi pháp luật. Tính hiệu quả dường như đã bị giảm do sự gia tăng các chuyên gia trong lĩnh vực sản xuất bất hợp pháp, do bộ máy quản lí quan liêu ngày càng cứng nhắc và sự tham nhũng của các quan chức trong các cơ quan công quyền và các quan chức thực thi pháp luật.
Clark Warburton và Irving Fisher là đối thủ trong cuộc tranh luận mang tính hàn lâm về Luật cấm rượu, nhưng cả hai đều đưa ra bằng chứng liên quan đến sự thay đổi đáng kể của giá tương đối trong giai đoạn Cấm Rượu. Chúng ta có thể kì vọng răng sự thay đổi trong giá tương đối là kết quả của rủi ro mà việc thực thi pháp luật tạo ra.
Warburton chứng minh rằng giá rượu giảm so với giá bia. Dựa trên giá trị trung bình của bốn đánh giá riêng biệt về giá nếu không có Luật Cấm trên toàn quốc, tỉ lệ giữa giá rượu và bia sẽ là 15,42/1. tỉ lệ giá bán lẻ ước tính trong các năm 1929-1930 là 11,78/1, trong khi tỉ lệ chi phí ước tính của rượu và bia tự chế là 333/1 (Warburton 1932, 148-66). Ước tính toàn bộ chi phí sẽ làm giảm các tỉ lệ giá cả trong giai đoạn Cấm. Người mua hàng phải đối mặt với nguy cơ bị tịch thu, nhưng với rượu thì nguy cơ này thấp hơn do kích thước nhỏ gọn.
Như đã đề cập ở trên, Irving Fisher là một người ủng hộ mạnh mẽ Luật cấm rượu. Ông đã sử dụng những kết quả quan sát được về tăng giá để tuyên bố rằng Luật Cấm đã làm kiệt quệ nguồn cung rượu. Fisher sử dụng các dữ liệu trong Bảng 5 để củng cố cho luận điểm của mình. Các tính toán trong ngoặc đơn là của tôi. Những tính toán của Fisher bên phải có nguồn gốc không rõ ràng. Trên thực tế, ông đã chỉ ra trong “Chỉ số giá rượu” là giá rượu đã tăng. Ông cũng chỉ ra rằng giá bia nhẹ tăng 700% trong khi rượu whisky nấu bằng lúa mạch đen chỉ tăng 312%, một lần nữa chứng tỏ rằng giá tương đối của rượu mạnh đã giảm.
Nhìn chung, mọi người đều đồng ý rằng do giá rượu tăng, lượng rượu được mua giảm, thực tế này đã được Warburton khẳng định. Nhưng tiêu thụ các loại rượu mạnh lại gia tăng khi so với các loại có nồng độ cồn thấp hơn, ví dụ như bia. Hiệu quả của việc giảm giá tương đối của rượu trong giai đoạn Cẩm Rượu đối với các khoản chi tiêu và tiêu thụ được thể hiện trong Bảng 6. Chưa làm rõ mối quan hệ này với sự thay đổi trong giá tương đối, Warburton đã ghi nhận rằng “Luật cấm rượu đã nâng số tiền chi cho rượu lên 3,5 tỷ đô-la, và giảm chỉ cho bia xuống còn dưới 1 tỷ đô-la "(1932, 170). Fisher cũng biết rằng “sự kiện được mọi người biết là Luật cấm rượu đã có hiệu quả hơn trong việc hạn chế uống bia hơn là rượu whisky” (1927, 29). T. Y. Hu, do không hiểu về giá tương đối, tỏ ra nghi ngờ phát hiện này.
Tác động của Luật cấm rượu đối với tiêu thụ còn được minh họa bằng cách đặt nó vào bối cảnh lịch sử (Bảng 7). Mặc dù tiêu thụ rượu liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, ví dụ như thu nhập và thuế đánh vào rượu, vẫn có một số xu hướng nhất định. Thứ nhất, trong giai đoạn Cấm Rượu, tiêu thụ bia gia tăng, một phần là do kết quả của sự giảm chi phí tương đối trong sản xuất và phân phối bia. Thứ hai, tổng lượng cần nguyên chất được tiêu thụ tương đối ổn định trong suốt giai đoạn này. Thứ ba, chi tiêu trước khi có Luật Cấm đã giảm vì thuế tăng, vì có những biện pháp cấm đoán thời chiến và những biện pháp cấm đoán của các bang.
Từ năm 1890 đến năm 1910 chi tiêu cho đồ uống có cồn tính trên thu nhập quốc dân đã giảm 2%, chỉ cho bia nhiều hơn chi cho rượu (tỉ lệ là 55:45), từ năm 1911 đến năm 1916 tỉ lệ này vẫn giữ nguyên (Warburton, 1932, 114-15). Sau khi Luật cấm rượu bị. bãi bỏ, tình hình tiêu thụ rượu trở lại như thời chưa cấm, chi phi cho rượu chỉ chiếm một nửa tất cả chi phí cho các loại nước uống. có cổn. Trong giai đoạn Cấm Rượu (1922-1930) chi phí cho rượu. chiếm từ 70 đến 87% chi phí cho tất cả các loại nước uống có cồn Trong giai đoạn từ 1939 đến 1960 chi phí cho rượu chỉ chiếm từ 42 đến 53% toàn bộ lượng nước uống có cồn.
Luật cấm rượu có dẫn đến sự đổi mới sản phẩm, dẫn đến những sản phẩm mới có hiệu lực cao hơn và nguy hiểm hơn hay không? “Chỉ số giá rượu” của Fisher cung cấp cho ta một số bằng chứng về hiện tượng này (Bảng 5). Một số sản phẩm mới, ví dụ như loại rượu lậu “White Mule" có nồng độ cồn cao hơn từ 50 đến 100% so với nồng độ trung bình trên thị trường. Fisher cho rằng sản phẩm có hiệu lực mạnh và nguy hiểm là nguyên nhân dẫn đến bóp méo số liệu thống kê, ví dụ như những vụ bắt giữ vì say rượu. "Tôi có thông tin đáng tin cậy rằng một sự tính toán rất thận trọng cho thấy ảnh hưởng độc hại của rượu lậu so với rượu thuốc là mười trên một; nghĩa là, chỉ cần uống một li rượu lậu đã làm cho người ta say như uống mười li rượu thời chưa có Luật Cẩm. Đương nhiên, lí do là rượu lậu có nồng độ rất cao và hầu như bao giờ cũng chứa các chất độc khác và nguy hiểm hơn là rượu chỉ chim etylic" (1927, 28-29, có nhấn mạnh). Friedman và Friedman (1984) còn nhận xét rằng các nhà sản xuất những sản phẩm mới thường sử dụng những chất thay thế nguy hiểm, như rượu làm từ gỗ hay rượu đã bị làm biến chất nhằm tăng hiệu lực của sản phẩm: "Trong giai đoạn Cấm Rượu, cả người bán rượu lậu lẫn người tự nấu rượu để uống đôi khi đã dùng rượu làm từ gỗ hay các chất khác, làm cho sản phẩm độc hơn, làm cho người uống bị ngộ độc và đôi khi là bị chết” (140-41, có nhấn mạnh). Các nhà sản xuất thường sử dụng những kỹ thuật chưng cất nghèo nàn và ít khi kiểm tra sản phẩm. Chắc là trên thị trường bị cấm đoán sẽ xảy ra hiện tượng lừa đảo vì không có thị trường có uy tín, mà Hayek (1948, 97) khẳng định là cần thiết nhằm bảo đảm cạnh tranh và hiệu quả của hợp đồng. Ngoài việc người ta không phải chịu trách nhiệm vì có thái độ cẩu thả và không chịu trách nhiệm trước luật trách nhiệm, cấm đoán cũng vi phạm những điều kiện mà Klein và Lefiler (1981) đã nêu ra, đấy là những điều kiện nhằm đảm bảo hiệu suất và duy trì chất lượng trên thị trường. Cùng với việc giảm tiêu thụ rượu, sự gia tăng hiệu lực và sử dụng những loại rượu giả có thể giúp giải thích vì sao giai đoạn Cấm Rượu, số liệu thống kê về người say rượu và nạn nghiện rượu đã không giảm một cách đáng kể.
Từ các bằng chứng do cả người phản đối lẫn người ủng hộ Luật cấm rượu đưa ra, thấy rõ là những thay đổi trong giá tương đối là kết quả của Luật cấm rượu và những thay đổi này dẫn đến gia tăng tiêu thụ các loại ma túy (rượu) có hiệu lực cao, cũng như các sản phẩm có hiệu lực cao hơn và nguy hiểm hơn (rượu lậu).
Chú thích:
(1) Theo Warburton (1932, 247) không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy trong giai đoạn cấm rượu nhà nước và chính quyền địa phương đã chi nhiều hơn là trước đây họ đã chi cho qui định và luật cấm.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition