[FA. Hayek: Cuộc đời và sự nghiệp]: Chương 25 - Hiến pháp về quyền tự do

[FA. Hayek: Cuộc đời và sự nghiệp]: Chương 25 - Hiến pháp về quyền tự do

Tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do (The Constitution of Liberty) bắt nguồn từ một chuyến đi mà chắc chắn là nằm trong số những nhiệm vụ thú vị nhất một học giả phải thực hiện. Khi biên tập thư từ của John Stuart Mill với Harriet Taylor, Hayek đã bỏ qua hầu hết những bức thư dài mà Mill viết cho bà trong chuyến đi tới Italia và Hy Lạp giai đoạn đông xuân 1854-1855. Hayek nghĩ ra ý tưởng lặp lại chuyến đi của Mill đúng một trăm năm sau kể từ ngày nó diễn ra và hoàn thành một tập sách chú giải về các bức thư của Mill. Ông tìm được nguồn tài trợ cho chuyến đi từ một quỹ, và cùng với Helene trải qua bảy tháng du lịch bằng ô tô “hết sức thú vị” qua Pháp, Italia, và Hy Lạp. Từ Hy Lạp họ ghé sang Ai Cập, nơi ông trình bày các bài thuyết trình “Lý tưởng Chính trị của Pháp trị” (The Political Ideal of the Rule of Law), cấu thành năm chương của tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do.

Công trình tiến triển qua một số năm. Khi Hayek tới Đại học Chicago năm 1950, ông đã hoàn thành hai bản thảo – John Stuart Mill và Harriet Taylor (John Stuart Mill and Harriet Taylor) đang nằm ở nhà xuất bản, và Trật tự cảm giác (The Sensory Order) sắp sửa thương thảo. Ông cố gắng làm cho Popper quan tâm đến tác phẩm sau. Tuy nhiên, mặc dù Popper đã viết một vài bức thư hồi âm các bức thư của Hayek liên quan tới cuốn sách cùng những ý tưởng xa hơn theo hướng này, Hayek vẫn không thể thu hút được sự quan tâm của Popper đến những ý tưởng tâm lý học của mình. Hayek đôi khi bày tỏ hy vọng Popper có thể đến với mình ở Chicago, cũng như sau đấy ông hy vọng Popper có thể tham gia vào nỗ lực tái tạo truyền thống trí tuệ của Đại học Vienna, và khi ở Salzburg, ông lại hy vọng Popper có thể đến với mình ở Salzburg.

Tư tưởng của Hayek rẽ sang một hướng mới với các bài luận Kế hoạch hoá kinh tế tập thể (Collectivist Economic Planning). Dù trước đó là một nhà kinh tế học hàn lâm kỹ thuật (technical academic economist) tích cực, nhưng giờ ông lại trở thành một lý thuyết gia và triết gia xã hội. Khi viết các bài luận này, ông bắt đầu ngày càng ý thức về chức năng của các mức giá cả và lợi nhuận trong việc định hướng sản xuất. Các mức giá cả và lợi nhuận là các tín hiệu sản xuất.

Trong tác phẩm “Kinh tế học và tri thức” (Economics and Knowledge), ông theo đuổi ý tưởng của mình về các mức giá cả định hướng sản xuất vật chất để đề xuất rằng chủ đề cơ bản của trật tự xã hội là liệu các mức giá cả và lợi nhuận có tồn tại để định hướng sản xuất, trong đó có nhiều hoạt động vật chất, hay không. Ông giả thiết, vấn đề quan trọng nhất mà một xã hội phải đối mặt là việc khai thác tri thức rời rạc và phân tán. Ông còn giả thiết thêm, những thiết chế song hành với trật tự tự do chủ nghĩa – tư hữu, tự do lao động và trao đổi – nói tóm lại là pháp trị – là những điều kiện tiên quyết tuyệt đối đối với một xã hội có hiệu quả vật chất và tự do tư duy trí tuệ.

Tư tưởng của Hayek về trật tự hiến định (constitutional order) bắt nguồn từ các công trình kinh tế học, phương pháp luận, và tâm lý học của ông. Trong công trình tâm lý học gần đây, ông thậm chí còn có ấn tượng nhiều hơn trước sự vô minh (ignorance) của con người, con người hiểu biết thật ít ỏi biết bao về thế giới khoa học thực thụ, đặc biệt trên phương diện cá nhân. Làm thế nào một hệ thống nhân loại lại có thể tồn tại mà ở đó tri thức bị phân tán rời rạc đến thế. Ngoài ra, công trình tâm lý học của Hayek cũng gợi lên trong ông vai trò quan trọng của tiến hoá.

Các công trình trong lĩnh vực kinh tế học đã khiến ông tin rằng các dao động kinh doanh (business fluctuations) là do sự thay đổi về các mức giá cả tương đối giữa tư bản và các loại hàng hoá khác trong một cơ cấu sản xuất. Quan niệm của ông về hoạt động kinh tế, hay chí ít đó là quan niệm của ông ở đây, là không chính xác. Dù vậy, ý tưởng về chức năng định hướng của các mức giá cả nảy ra từ đấy lại có giá trị to lớn ngoài việc Hayek đưa nó vào lý thuyết chu kỳ kinh doanh của trường phái kinh tế học Áo.

Khi tới Chicago năm 1950, chương trình làm việc của Hayek đại để là: Một số năm ông viết các bài luận Sự lạm dụng và suy tàn của lý trí (The Abuse and Decline of Reason), mà một vài kết quả sơ bộ của chúng đã xuất hiện trong tập bài luận Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế (Individualism and Economic Order, 1948) và sau đó chúng xuất hiện trong tác phẩm Cuộc cách mạng ngược trong khoa học (The Counter-Revolution of Science, 1952). Tác phẩm Đường về nô lệ ra đời năm 1944. Ông quan tâm đến mối quan hệ giữa biến động xã hội và khuôn thức trình bày công trình khoa học cũng như về nhiều chuyên ngành học thuật. Việc ông ở Uỷ ban Tư tưởng Xã hội là tốt hơn nhiều so với việc trở thành thành viên khoa kinh tế.

Hayek mong muốn khám phá thêm ý tưởng về khai thác tri thức phân tán, rời rạc, không hoàn chỉnh và thiếu chính xác. Ông tìm cách làm sáng tỏ hơn ý tưởng theo đó trật tự xã hội có thể xuất hiện cho dù không có ai định hướng, và về việc sử dụng tri thức của một nhóm cá nhân mà không một cá nhân nào sở hữu tri thức ở hình thái toàn vẹn của nó. Ông phát hiện những hiểu biết và tri thức có giá trị nằm trong những thiết chế và tập quán lan truyền (bằng con đường văn hoá). Ông cho rằng chúng tiến hoá qua thời gian nhằm tiến tới những xã hội có hiệu quả vật chất cao nhất.

Ngày 7 tháng 3 năm 1954, Hayek viết thư đề nghị Quỹ Guggenheim (Guggenheim Foundation) tài trợ cho các chuyến đi của mình tới Italia và Hy Lạp, không chỉ vì ông dự định nghiên cứu về John Stuart Mill, mà còn bởi ông nghĩ rằng việc đi đến những khu vực phi công nghiệp hoá này sẽ giúp ông hiểu được nhiều hơn về quá trình phát triển của truyền thống và văn hoá trong các xã hội nông nghiệp. Ông quan tâm đến việc những nguyên tắc và tập quán rõ ràng, phi ngôn từ – không phải là không có lý trí (irrational) mà là phi lý trí (nonrational) – phát triển như thế nào. Tựa đề cuốn sách ông dự định viết theo hướng này, mà ông từng nói là đã nghiên cứu từ nhiều năm, chắc hẳn sẽ gần gũi với tựa đề chương II tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do, “Sức mạnh sáng tạo của nền văn minh tự do.” (The Creative Power of a Free Civilization).

Hayek chưa bao giờ thực sự viết cuốn sách đó. Các bài viết “Triết học” (Philosophy) trong hai tác phẩm Các nghiên cứu (Studies, 1967) và Các nghiên cứu mới (New Studies, 1978) tiến gần nhất tới việc trình bày những ý tưởng về công trình đã được công bố của ông trong lĩnh vực này. “Sức mạnh sáng tạo của nền văn minh tự do,” là cái tên mà Hayek đầu tiên hình dung về tác phẩm, với dụng ý đây sẽ là công trình tập hợp các ý tưởng của mình về tâm lý học chứ không phải kinh tế học. Triết lý cá nhân mà Hayek nhận thấy xuyên suốt tư tưởng trật tự xã hội của ông là thứ triết lý nhấn mạnh sự vô minh (ignorance) của cá nhân, sự tiến hoá, trí tuệ nhóm (group intelligence), sự giao tiếp, và chủ nghĩa tự do–sáng tạo (originality-liberalism). Ông quan tâm đến mối quan hệ giữa luân lý, sự vô minh, và trật tự xã hội.

Ông dần dần nhận ra rằng nỗ lực nhằm đạt đến cùng mức độ phán đoán, và qua đó là mức độ kiểm soát, như trong các ngành khoa học vật chất là không khả thi trong lĩnh vực khoa học xã hội. Vì vậy, các xã hội không nên gắng sức đạt tới mức độ mà các kết quả được xác định từ trước như vẫn khả thi trong lĩnh vực khoa học vật chất. Sự hạn chế về tri thức đặt ra những giới hạn của chính phủ. Không thể xoá bỏ được sự vô minh của cá nhân. Ông quan tâm đến ý tưởng về sử dụng tri thức là không ai có được tri thức ở hình thái toàn vẹn của nó.

Nhờ các bài thuyết trình ở Cairo cùng “mối bận tâm thường xuyên đến tư tưởng của Mill,” mà kế hoạch về tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do đột nhiên “hiện lên rõ ràng” trong đầu khi Hayek quay về Mỹ.Ban đầu ông dự định viết hai công trình về trật tự tự do khi trở về Mỹ. Tác phẩm đầu tiên sẽ là Hiến pháp về quyền tự do, và tác phẩm thứ hai, “Sức mạnh sáng tạo của nền văn minh tự do.” Ông dành bốn năm tiếp theo để nghiên cứu Hiến pháp về quyền tự do. Trong lời tựa năm 1959 của ấn bản tiếng Đức tác phẩm Cuộc cách mạng ngược trong khoa học (The Counter-Revolution of Science – đầu tiên với dụng ý sẽ là phần đầu của tác phẩm Sự lạm dụng và suy tàn của lý trí (The Abuse and Decline of Reason), ông kết luận, “công trình mà lời tựa này là một phần của nó sẽ không được tiếp tục dưới hình hài như hình dung ban đầu. Giờ đây tôi hy vọng sẽ trình bày phần tư tưởng đó trong một cuốn khác ít mang tính lịch sử nhưng lại có hệ thống hơn”– Hiến pháp về quyền tự do. Ông hoàn tất tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do bằng việc viết lời tựa cho nó vào dịp sinh nhật lần thứ 60, ngày 8 tháng 5 năm 1959.

Trong chương I cuốn sách, ông nêu quan niệm của mình về tự do, là “tình trạng mà ở đó một người không chịu sự cưỡng bức (coercion) từ ý chí độc đoán của người khác.”Ông không cho việc thiếu vắng hoàn toàn tình trạng cưỡng bức là khả dĩ hay đặc trưng của tự do. Quan điểm của ông là pháp luật có thể tạo ra tự do thông qua việc thiết lập một nền tảng xã hội cho phép các cá nhân sống theo lý trí của mình. Theo ông, điều cốt yếu là sự cưỡng bức không phải là độc đoán (arbitrary), và các cá nhân cần biết trước cái gì thì được phép và cái gì thì không được phép trong xã hội.

Thời gian sáng tác kéo dài đã có ảnh hưởng đến cuốn sách. Giai đoạn cuối thập niên 1950 là thời kỳ đối đầu căng thẳng giữa Mỹ và Liên bang Xôviết. Đây là thời gian diễn ra cuộc đấu tranh thực sự về chính trị và triết học nhằm quyết định hệ thống nào sẽ thắng thế – hệ thống Liên bang Xôviết hay hệ thống của Mỹ. Nhiều người nghĩ hệ thống Liên bang Xôviết sẽ thắng thế. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp về quyền tự do có thể được coi là sự tái khẳng định và đưa ra lý lẽ biện minh cho chủ nghĩa tư bản tự do.

Hy vọng mà Hayek gửi gắm vào tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do là cao hơn hết so với bất kỳ công trình nào khác. Ông dự định đây sẽ là công trình vĩ đại nhất của mình. Một số chương đã được xuất bản dưới hình thức nào đó trước khi xuất hiện trong cuốn sách cuối cùng, và chúng được chuyển tới bạn bè, đồng nghiệp và sinh viên để thu thập ý kiến. Ông liệt kê 26 cá nhân trong lời cám ơn và ghi chú của cuốn sách, những người đã xem xét bản thảo dưới hình thức nào đó trước khi xuất bản, đây là điều chưa từng có tiền lệ trong bất kỳ công trình nào khác của ông (ông đề cập trong lời cám ơn, “Tôi thậm chí chưa bao giờ biết cách tận dụng sự giúp đỡ của một trợ lý nghiên cứu”).Năm chương của cuốn Hiến pháp về quyền tự do gồm các bài thuyết trình ở Cairo của ông chủ yếu là về vấn đề pháp trị. Không có pháp luật thì không thể có tự do. Pháp luật đúng đắn sẽ cấu thành, xác định, tạo nên tự do – pháp luật đúng đắn là tự do. Ông sử dụng đoạn sau đây như là lời đề từ của chương “Nguồn gốc của pháp trị” (The Origin of the Rule of Law): “Mục đích của pháp luật, không phải là nhằm bãi bỏ hay kiềm chế, mà là nhằm giữ gìn và mở rộng tự do. Bởi trong tất cả những trạng thái của sinh vật có năng lực pháp lý, thì ở đâu không có pháp luật ở đấy không có tự do. Vì tự do nghĩa là tình trạng không chịu sự ràng buộc hay xâm phạm bởi người khác. Điều này không thể diễn ra ở nơi không có pháp luật, và không phải… là quyền tự do dành cho mọi người được làm những gì mà người đó mong muốn (vì liệu ai có thể được tự do khi mà khả năng bị áp chế của người đó tuỳ thuộc vào tâm tính của mọi người khác?), mà chính là quyền tự do định đoạt và xếp đặt theo cách anh ta mong muốn đối với thân thể, hành vi, vật sở hữu, và toàn bộ tài sản của anh ta, trong phạm vi cho phép của những luật lệ mà ở đó anh ta sẽ không phải là đối tượng của ý chí độc đoán từ người khác, mà là sự tự do tuân theo ý chí của mình.” Trong tác phẩm Con đường tới nô lệ (The Road to Serfdom), Hayek cũng tán đồng khi trích dẫn Locke, “Không thể có tự do nếu không có pháp luật.”

ý tưởng pháp luật đúng đắn tạo nên tự do có thể xem ra khác lạ với những người vốn nhận thức về tự do trong xã hội hoặc là một mức sống vật chất nhất định hoặc là khả năng tham gia vào bộ máy chính trị. Mặc dù theo Hayek cả hai nội dung trên đều là những điều tốt đẹp điển hình, ông vẫn lập luận rằng chúng khác biệt với sự tự do được nhận thức một cách đúng đắn, đó là quyền tự do chỉ gắn liền với xã hội mà ở đấy ý chí cưỡng bức của một người đối với người khác được quy về mức độ tối thiểu tuyệt đối thông qua những luật lệ chung đã biết, áp dụng cho tất cả mọi người.

Trong phần đầu tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do, “Giá trị của tự do” (The Value of Freedom), Hayek tìm cách phác hoạ những khả năng to lớn tiềm tàng của trật tự chính trị mang đặc trưng pháp trị. Đây chủ yếu là sự tiếp nối những luận điểm kinh tế mà ông đưa ra trong giai đoạn đầu sự nghiệp chống lại chủ nghĩa xã hội cổ điển, nhưng lại xuất phát từ quan điểm tích cực hơn. Ở đây ông nhấn mạnh không phải tính bất khả thi của chủ nghĩa xã hội cổ điển, mà là năng suất vật chất của trật tự chính trị – xã hội mà ở đó pháp trị, tư hữu, hợp đồng, và tự do trao đổi dẫn đến mức sống cao nhất có thể.

Tính thiết yếu của pháp trị đối với năng suất dựa trên sự cần thiết có tính chất tâm lý về một bối cảnh duy lý để cho cá nhân đạt đến năng suất tối đa. Hayek nói, “khó có thể cường điệu vai trò quan trọng của sự chắc chắn mà pháp luật thể hiện đối với việc vận hành xã hội tự do một cách trơn tru và hiệu quả. Có lẽ không một nhân tố đơn lẻ nào lại góp phần vào sự phồn vinh của Phương Tây nhiều hơn sự tương đối chắc chắn của pháp luật thịnh hành ở đây.” Theo Hayek, tính duy lý xã hội (societal rationality) mà pháp luật tạo nên là lý do tồn tại của pháp luật. Nếu các luật lệ trong xã hội không chắc chắn việc một người có thể làm những gì và quyền sở hữu của một người là gì, thì cá nhân sẽ không có năng suất như trong một xã hội mà ở đó những luật lệ này thể hiện chắc chắn hơn. Nếu không có các điều luật và tập tục xã hội, cá nhân không thể biết được kết cục hành vi của mình.

Các luật lệ và nguyên tắc là một trật tự siêu hình (metaphysical) hay trừu tượng (abstract). Chúng phần lớn tuỳ thuộc vào các luật lệ và nguyên tắc khác vốn tuân theo cùng những luật lệ và nguyên tắc như nhau…. Chúng tạo nên trật tự xã hội và qua đó tạo ra khả năng về hoạt động có năng suất.

Cố nhiên, nội dung của pháp luật, cũng như sự tồn tại của nó, đóng vai trò then chốt. Theo Hayek, nội dung thích hợp của pháp luật là nhằm tạo ra phạm vi riêng cho các cá nhân mà ở đó, như quan điểm của Locke và Mill, họ có thể hành động như mình mong muốn. Trong phần “Giá trị của tự do” (The Value of Freedom), Hayek lập luận, tự do “giả định trước việc cá nhân được đảm bảo một phạm vi nhất định, có một tập hợp các nhân tố nhất định trong môi trường của mình mà những người khác không thể can thiệp.”Ngoài ra một điều quan trọng nữa là: vì những đối tượng vật chất có vai trò to lớn trong cuộc sống cá nhân, nên cá nhân không thể được coi là tự do nếu họ không có quyền định đoạt chí ít là một số đối tượng vật chất mà họ mong muốn. Vì lý do đó, tư hữu có tính cốt yếu đối với với tự do, cũng như một cơ hội nhất định trong lựa chọn việc làm.

Hayek nhấn mạnh tầm quan trọng của tiến bộ vật chất, “ngày nay, những khát vọng của đa số nhân dân thế giới chỉ có thể được thoả mãn bằng tiến bộ vật chất nhanh chóng. Vào lúc này, khi mà phần lớn nhân loại vừa mới thức tỉnh trước khả năng về nạn đói huỷ diệt, rác rưởi và bệnh tật; khi mà họ vừa mới tiếp xúc với làn sóng mở rộng của công nghệ hiện đại sau hàng thế kỷ hay thiên niên kỷ tương đối ổn định; thì ngay cả một sự giảm sút nhỏ về tốc độ phát triển của chúng ta cũng có thể là tai hoạ.”

Hayek đã thách thức lịch sử hàng trăm năm của tư tưởng về bình đẳng (egalitarian thinking). Trong tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do, dẫn chứng có tính hiển nhiên tức thời nhất về điều này có lẽ là việc ông xem xét về các nước chưa phát triển và vai trò quan trọng – thực chất là tính tất yếu – của bất bình đẳng trong các xã hội. Về tình trạng bất bình đẳng trên thế giới, ông viết, “ít ai có thể nghi ngờ triển vọng của những quốc gia nghèo, ‘chưa phát triển’ trong việc đạt tới trình độ hiện nay của Phương Tây là cao hơn trước đây rất nhiều, nếu như không nhờ Phương Tây đã tiến quá xa. Nếu ngày nay một số nước trong một ít thập niên có thể đạt được mức độ giàu có vật chất mà Phương Tây phải mất hàng trăm hay hàng nghìn năm mới đạt được, thì chẳng phải rõ ràng con đường của họ đã trở nên thuận buồm xuôi gió nhờ một thực tế là Phương Tây không bị ép buộc phải chia sẻ những thành tựu vật chất của nó với các nước còn lại ư – và nó chẳng những không bị níu lại mà còn có thể tiến xa hơn về phía trước so với các nước khác ư?”

Về bất bình đẳng trong phạm vi cộng đồng, Hayek tin tưởng, “một trong những thực tế đặc trưng của xã hội tiến bộ là phần lớn mọi thứ trong đó đều chỉ có thể đạt được thông qua tiến bộ xa hơn nữa. Điều này xuất phát từ đặc điểm tất yếu của quá trình sau: tri thức mới cùng những lợi ích của nó chỉ có thể lan rộng từ từ, và tham vọng của số đông sẽ luôn được quyết định bởi những gì mà đến thời điểm đó mới chỉ có một nhóm thiểu số đạt được. Tiến bộ kinh tế nhanh chóng mà chúng ta trông đợi xem ra phần lớn là kết quả của sự bất bình đẳng và sẽ không khả thi nếu không có sự bất bình đẳng ấy.”

Hayek nằm ngoài dòng chủ lưu của tư tưởng chính trị tự do với thuyết bất bình đẳng của mình. Mặc dù từ một số trích đoạn của các tác gia sau đây có thể tìm thấy các quan điểm tương phản rõ ràng ấy, thì quan điểm phổ biến của tư tưởng chính trị tự do trước đấy cũng vẫn khác so với quan niệm do Hayek đề ra:

HOBBES: “Tạo hoá vốn sinh ra con người rất bình đẳng về những khả năng cơ thể và trí óc, vì thế dù đôi khi có một người với cơ thể khoẻ hơn hay đầu óc nhanh nhẹn hơn người khác, thì khi tất cả đều được tính đến, sự khác nhau giữa người với người là không đáng kể tới mức như người ta có thể dựa vào đấy để đòi hỏi cho bản thân bất kỳ lợi ích nào, mà với nó người khác, cũng như anh ta, có thể không đòi hỏi.”

LOCKE: “Chúng ta hãy giả thiết trí óc là một tờ giấy trắng, như chúng ta vẫn nói, không có lấy một phẩm chất cũng như bất kỳ ý tưởng nào; thì tờ giấy ấy sẽ được điền vào như thế nào? Với câu hỏi này, tôi xin trả lời bằng một từ, từ kinh nghiệm: toàn bộ tri thức của chúng ta được tạo ra trong đó [kinh nghiệm], và cuối cùng chính nó lại tự bắt nguồn từ đó.” Locke cũng tán thành khi trích dẫn Richard Hooker, “sự bình đẳng của con người theo tự nhiên” “‘đã khiến con người dần hiểu ra rằng họ mang bổn phận phải thương yêu người khác không ít hơn chính bản thân mình; bởi lẽ để thấy được những gì là bình đẳng như nhau thì đòi hỏi tất cả phải có cùng chuẩn mực, vậy làm sao tôi lại phải tìm kiếm sự thoả mãn bất cứ một phần mong muốn nội tại nào của mình, trừ khi chính tôi cần phải lưu ý việc thoả mãn mong muốn tương tự, chắc chắn nằm trong những người khác, có cùng bản chất như mình? Mong muốn của tôi, vì thế, là được những người bình đẳng về bản chất thương yêu…’”

SMITH: “Trên thực tế, sự khác nhau về tài năng tự nhiên của những con người khác nhau lại ít hơn rất nhiều so với mức độ mà chúng ta biết. Sự khác nhau giữa những phẩm chất đối nghịch nhất, chẳng hạn giữa một triết gia và một người khuân vác, xem ra không bắt nguồn nhiều từ tự nhiên mà từ thói quen, tập quán, và giáo dục.”

JEFFERSON: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.

Mặc dù Hayek có quan niệm bất bình đẳng về tiềm năng của các cá nhân, ông vẫn không bảo thủ trong việc tìm cách duy trì thực trạng hay bảo vệ các mối quan hệ hiện tại giữa quyền lực và đặc quyền trong xã hội. Trên thực tế, ông tìm cách làm đảo lộn triệt để thực trạng trong các xã hội chừng nào nó vẫn chưa tạo ra các trật tự thị trường trọng nhân tài, bất bình đẳng và cạnh tranh. Ông viết, “Một quyền tự do chỉ được một người trong số một triệu người sử dụng có thể lại đóng vai trò quan trọng hơn đối với xã hội và có lợi ích hơn đối với đa số người so với bất cứ quyền tự do nào mà tất cả chúng ta đều dùng tới.”Quan trọng hơn hết, “Khuynh hướng phổ biến trong thời cận đại là giảm thiểu vai trò quan trọng của những khác biệt bẩm sinh giữa con người với nhau và quy tất cả những khác biệt quan trọng là do ảnh hưởng của môi trường. Cho dù căn nguyên vừa đề cập tới có thể quan trọng đến đâu, chúng ta cũng không được bỏ qua thực tế là các cá nhân vốn rất khác nhau từ lúc ban sơ. Trên thực tế, câu nói ‘tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng’ chắc chắn là không đúng.

Ý nghĩa thế giới quan bất bình đẳng của Hayek về những thiên hướng cố hữu của nhân loại là ở chỗ nó làm xói mòn các trật tự xã hội dựa trên ý tưởng về sự đáng mong muốn của bình đẳng hay tính chất đồng đều (uniformity) trong xã hội. Nếu nhân loại không có được sự đa dạng sinh lý, thì các cộng đồng mà ở đó tồn tại tính đa dạng mang nhiều ý nghĩa trong các kết quả cuối cùng có thể không đạt đến kết quả tối ưu, với cùng mức độ bất cập về đa dạng sinh lý ấy. Mặt khác, nếu các cá nhân rất đa dạng về mặt tự nhiên, thì các xã hội tối ưu – hay tự nhiên – là những xã hội mà ở đó tính đa dạng của con người sẽ tự bộc lộ.

Trong tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do, ông lập luận, từ “thực tế là con người vốn rất khác nhau dẫn đến, nếu chúng ta đối xử bình đẳng với họ, thì kết quả tất phải là sự bất bình đẳng trong địa vị thực sự của họ… Tự do dẫn đến bất bình đẳng về vật chất.”Đây có lẽ là cốt lõi của thông điệp Hayek (Hayekian message) về loại cộng đồng mà con người muốn vươn tới – không thể có tiến bộ vật chất nếu không có bất bình đẳng và sự đa dạng về kết quả. Trong một cuộc phỏng vấn hàng chục năm sau, ông phát biểu, “chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng chỉ hệ thống nào mà ở đó chúng ta có thái độ khoan dung khủng khiếp với những chênh lệch bất công về lợi ích mới có thể giữ cho số lượng người hiện nay của thế giới tồn tại.”

Hơn thế – tương tự luận điểm chống lại chủ nghĩa xã hội của mình – ông đưa ra nhận định này không phải như một phương châm đạo đức mà là như một thực tế mang tính thực nghiệm. Các cá nhân có thể không thích thực tế này, nhưng không thể vẫn tồn tại những cộng đồng người có năng suất vật chất theo bất cứ cách nào khác. Giữa bình đẳng và năng suất có một lựa chọn. Người ta có thể có cái này hoặc cái kia hoặc không cái nào cả, chứ không thể có cả hai, hay chí ít đấy là luận điểm của Hayek. Ông chọn bất bình đẳng và năng suất về kết quả vật chất trong một trật tự xã hội thay vì bình đẳng và nghèo đói.

Hơn thế, bất bình đẳng vật chất trong một xã hội cần phải dựa trên tính đa dạng bẩm sinh của con người. Điều này đạt được một cách nghịch lý thông qua sự bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Chính xác là khi mọi người được đối xử như nhau thì tính đa dạng bẩm sinh của con người tự bộc lộ. Theo Hayek, xã hội tối ưu là xã hội mà ở đó tài sản nhà cửa và vật chất sẽ được xác lập theo năng lực, được quyết định không thiên vị thông qua thị trường cạnh tranh với đặc trưng là tự do trao đổi và tư hữu, chứ không phải thông qua việc chính phủ quản lý chi tiết toàn bộ hoạt động kinh tế.

Ông từng bị Ronald Hamowy, sinh viên của mình tại Đại học Chicago, phê phán với thái độ tôn trọng trên tạp chí New Individualist Review về “việc sử dụng từ ‘cưỡng bức’ của giáo sư Hayek trong ngữ cảnh liên quan đến hoạt động của nhà nước. Ông nói, ‘khái niệm tự do trong khuôn khổ pháp luật, mối quan tâm của cuốn sách này, dựa trên lập luận cho rằng khi chúng ta tuân thủ pháp luật, theo nghĩa những nguyên tắc trừu tượng chung được đề ra mà không xét đến sự áp dụng của chúng đối với chúng ta, thì chúng ta không phụ thuộc vào ý chí của người khác và do vậy đấy là tự do.’ Tất nhiên, kết luận rút ra là những nguyên tắc trừu tượng này không có tính cưỡng bức, bất kể phẩm chất nào về nội dung của chúng.”Phê bình của Hamowy – quan niệm vĩ mô về tự do và pháp luật của Hayek là phi nội dung – cũng từng được những người khác nêu lên.

Hayek phản ứng lại, “chủ đề mà ông Hamowy bất đồng là một chủ đề thực tiễn về cách thức qua đó quyền lực cưỡng bức của chính phủ có thể được hạn chế nhằm gây ra ít tác hại nhất. Do chính phủ cần quyền lực ấy nhằm ngăn ngừa sự cưỡng bức, nên có thể thoạt tiên sự kiểm nghiệm có vẻ như cần phải là để xem nó có nằm trong trường hợp cụ thể cần thiết cho mục đích đó hay không. Tuy nhiên, để biến việc ngăn ngừa sự cưỡng bức xấu hơn là cần thiết thì không thể tránh khỏi việc tiêu chuẩn đánh giá sẽ khiến cho quá trình ra quyết định phụ thuộc vào quyền tuỳ ý (discretion) của một người nào đó… Trong khi chúng ta chỉ muốn cho phép sự cưỡng bức của chính phủ trong những tình huống cần thiết phải ngăn ngừa sự cưỡng bức, thì chúng ta lại không muốn cho phép sự cưỡng bức ấy trong toàn bộ những trường hợp có thể được coi là cần thiết cho mục đích này. Vì thế, chúng ta cần một sự kiểm nghiệm khác nhằm khiến cho việc sử dụng hành động cưỡng bức độc lập với ý chí cá nhân. Điểm nổi bật của truyền thống chính trị Phương Tây chính là vì mục đích này nên sự cưỡng bức đã được giới hạn trong những trường hợp mà nó được đòi hỏi thông qua những nguyên tắc trừu tượng chung đã biết và áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người. Kết hợp với đòi hỏi theo đó những nguyên tắc chung cho phép sự cưỡng bức ấy chỉ có thể được biện minh bởi mục đích chung nhằm ngăn ngừa sự cưỡng bức xấu thì nguyên lý này xem ra là phương thức hữu hiệu nhất để giảm thiểu sự cưỡng bức mà nhân loại đã khám phá ra cho đến nay.”Nói cách khác, lập trường của ông không chỉ là pháp luật cần phải có hình thức chắc chắn, phổ biến mà còn phải có nội dung tối thiểu hoá tính cưỡng bức.

Hamowy cũng viết, “luận đề chính của Hayek là tự do có thể được định nghĩa là không có sự hiện diện của cưỡng bức.”Hayek phản ứng trước nhận xét này, “Không phải luận đề chính trong cuốn sách của tôi là ‘tự do có thể được định nghĩa là không có sự hiện diện của cưỡng bức.’ Đúng hơn, như câu đầu tiên ở chương thứ nhất đã giải thích, quan tâm trước hết của nó là ‘điều kiện của con người mà ở đó sự cưỡng bức một số người bởi những người khác được giảm thiểu tới mức độ thấp nhất có thể đạt được trong xã hội.’ Tôi thông cảm với thái độ thất vọng trước việc tôi đã thừa nhận là không biết làm thế nào để ngăn chặn hoàn toàn cưỡng bức, và tất cả hy vọng khả dĩ của chúng ta là giảm thiểu nó. Cưỡng bức chỉ có thể được giảm bớt hay khiến cho có tác hại ít hơn chứ không thể loại trừ hoàn toàn.”Mấu chốt vấn đề là ở chỗ “ngăn cản mọi người khỏi cưỡng bức người khác chính là cưỡng bức họ.”Hayek tin tưởng, nhà nước – dưới hình thái này hay hình thái khác – là nằm ở chỗ này.

Bên cạnh việc nhấn mạnh sự cần thiết của pháp luật đối với tự do, ông cũng nhấn mạnh rằng phần lớn sự tiến bộ là đi vào chỗ chưa biết. Không nên quản lý xã hội một cách cưỡng bức bởi không ai biết tương lai có thể đem đến điều gì và sự thay đổi công nghệ có thể tác động đến đời sống xã hội tương lai như thế nào. Ông tin tưởng sâu sắc vào “sự kém hiểu biết không thể tránh khỏi” của mọi người.”Ông viết, “Trí óc không bao giờ có thể nhìn thấy trước được tiến bộ của chính nó,” và trích dẫn Oliver Cromwell, “‘Con người không bao giờ đạt tới tầm cao hơn so với khi họ không biết mình đang đi về đâu.’”Hayek nhấn mạnh, sẽ là một “sai lầm khi tin rằng để đạt được nền văn minh cao hơn, chúng ta chỉ cần đưa vào cuộc sống những ý tưởng hiện đang chỉ đường cho mình. Nếu muốn tiến bộ, chúng ta phải dọn đường cho việc tu chỉnh liên tục những lý tưởng và quan niệm hiện hành của chúng ta, mà kinh nghiệm trong tương lai sẽ khiến cho quá trình ấy trở nên cần thiết.”Trí óc không thể nhìn thấy trước tiến bộ của chính nó.

Ông đặt niềm tin vào lý trí. Trong tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do ông viết, “lý trí chắc chắn là gia tài quý giá nhất của con người. Luận điểm của chúng ta đơn giản là nhằm chỉ ra rằng lý trí không phải là toàn năng và niềm tin theo đó lý trí có thể làm chủ và kiểm soát quá trình phát triển của nó có thể cuối cùng sẽ huỷ hoại chính nó.”Luận điểm của ông không phải phản bác lại lý trí, mà bản thân nó là một luận điểm hợp lý, theo đó những gì cá nhân có thể biết và đạt được là có giới hạn, và các xã hội tối ưu cần dựa trên tiên đề này, thay vì một tiên đề khác tin tưởng vào một lý trí cá nhân toàn năng.

Phần thứ ba của cuốn Hiến pháp về quyền tự do là “Tự do trong nhà nước phúc lợi” (Freedom in the Welfare State). Mises là người viết bài phê bình tác phẩm, và đưa ra đánh giá sau:

Chính tài năng vĩ đại của giáo sư Friedrich von Hayek đã hướng sự chú ý vào đặc điểm chuyên chế của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Giờ đây, giáo sư Hayek lại mở rộng và chứng minh các ý tưởng của mình qua một luận thuyết toàn diện, Hiến pháp về quyền tự do. Trong hai phần đầu của cuốn sách, tác giả đã trình bày xuất sắc ý nghĩa của tự do và sức mạnh sáng tạo của nền văn minh tự do.

Đáng tiếc, phần thứ ba cuốn sách của giáo sư Hayek lại hơi đáng thất vọng. Ở đây tác giả cố gắng phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội và nhà nước phúc lợi. Ông khẳng định chủ nghĩa xã hội đang trên đà sa sút, và nhà nước phúc lợi đang thế chỗ của nó. Ông cũng cho rằng nhà nước phúc lợi, với những điều kiện nhất định, là tương thích với tự do. Giáo sư Hayek đã đánh giá sai đặc điểm của nhà nước phúc lợi.

Hayek không phải là một nhà lý thuyết cứng nhắc. Dựa trên quan niệm nhấn mạnh tính chất không quan trọng của lý trí cá nhân của ông, thì việc ông chỉ thuần tuý ủng hộ quá trình từng bước khắc phục nhà nước phúc lợi thay vì thay thế nó hoàn toàn đã thể hiện sự nhất quán. Các nhà tư tưởng trong tương lai có thể hình dung ra một thế giới không có chính phủ, tuy nhiên đó không phải là bước tiến thực tiễn tiếp theo vào thời điểm Hayek viết cuốn Hiến pháp về quyền tự do. Thời điểm ấy nhà nước phúc lợi là hình thái năng suất nhất từng xuất hiện của xã hội loài người và nó đòi hỏi tái cấu trúc, trái với thay thế, trong sự đối đầu mang tính toàn cầu với chủ nghĩa cộng sản của thế giới.

Hy vọng mà Hayek gửi gắm vào tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do là nhiều nhất so với bất kỳ công trình nào khác của mình. Năm 1978, ông có cuộc trao đổi với James Buchanan như sau:

Hỏi: Tôi nghe nói ngài từng phát biểu là ngài đã rất ngạc nhiên trước phản ứng dành cho tác phẩm Con đường tới nô lệ. Mặt khác, tôi cũng nghe mọi người nói là ngài đã rất thất vọng trước thái độ đón nhận tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do – nghĩa là ngài chờ đợi một sự đón nhận tích cực hơn so với trong thực tế. Điều này có đúng vậy không?

Trả lời: Vâng, đúng vậy.

Hayek hy vọng, giống như Con đường tới nô lệ, tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do cũng sẽ là một thành công lớn và nổi tiếng. Cuốn sách được chính thức công bố vào ngày 9 tháng 2 năm 1960, nhưng bài phê bình và các bản ra trước của nó đã có mặt từ cuối năm 1959. Hayek tự tay, hoặc qua những người khác, gửi rất nhiều cuốn tới các nhà khoa học lâm, các nhà lãnh đạo tập đoàn, và các quan chức chính phủ, cũng như tới các chuyên san và tạp chí, trên khắp thế giới, nhất là ở Mỹ. Mặc dù một số hoạt động xúc tiến rộng rãi trước khi xuất bản này được Nhà xuất bản Đại học Chicago và các quỹ trang trải, ông vẫn phải bỏ tiền túi ra.

Ông tìm kiếm lượng độc giả rộng lớn. Trong bức thư cá nhân gửi một biên tập viên của tờ tuần báo Time nhằm khích lệ anh ta viết một bài phê bình nhưng không thành công, ông nhận xét rằng tuy có vẻ là một công trình học thuật, Hiến pháp về quyền tự do vẫn hướng tới độc giả nói chung. Trong một hay hai bức thư in sẵn gửi cho nhiều người kèm theo cuốn sách, ông bộc lộ rằng tác phẩm chủ yếu là dành cho giới doanh nhân, các nhà lãnh đạo công chúng và dư luận. Ông tự tay gửi các cuốn sách cho cựu tổng thống [Mỹ] Hoover phó tổng thống Nixon, Henry Luce – nhà xuất bản của tạp chí Time, Walter Lipmann, các thành viên Hội đồng Cố vấn Kinh tế của tổng thống, và những người khác. Rõ ràng Nixon chí ít cũng liếc qua tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do và cơ bản là đồng cảm với nó.

Hayek gửi một cuốn Hiến pháp về quyền tự do cho tạp chí Reader’s Digest, hy vọng nó sẽ rút gọn cuốn sách, như nó đã từng làm với tác phẩm Con đường tới nô lệ. Trong bức thư gửi cho DeWitt Wallace của tạp chí Reader’s Digest cùng với cuốn Hiến pháp về quyền tự do, ông mô tả nó là sự khẳng định vĩ đại về các nguyên lý của xã hội tự do mà ông nghiên cứu từ sau tác phẩm Con đường tới nô lệ. Reader’s Digest hồi âm, trước sự thất vọng của Hayek, là nó sẽ không thể rút gọn được cuốn sách.

Một số bức thư và cuốn sách mà ông gửi đi là nhằm tìm kiếm những nhận xét, đánh giá và chúng có thể được sử dụng để quảng bá thêm cho cuốn sách. Chẳng hạn, Roscoe Pound hồi âm cho Hayek, “nếu ngài cảm thấy việc trích dẫn nhận xét của tôi là đáng giá thì tôi sẽ không ngần ngại nói rằng cuốn sách xuất hiện đúng thời điểm, có cơ sở, và được viết tốt.” Trong nhiều bức thư trao đổi trước khi xuất bản kèm theo các cuốn sách ra trước của tác phẩm, Hayek lưu ý thời gian công bố sẽ vào ngày mồng 9 tháng 2, với hy vọng đem lại sự quảng bá rộng lớn nhất có thể cho tác phẩm khi xuất bản.

Ông thất vọng trước phản ứng dành cho cuốn sách. Không một bài phê bình nào được công bố trên các tạp chí Life hay Time, và cuốn sách đã được Sydney Hook phê bình bất lợi bằng một bài viết đăng bên trong tạp chí New York Times Book Review, vốn từng dành cho tác phẩm Con đường tới nô lệ sự chào đón nổi bật trên trang nhất mười sáu năm trước. Hook viết, với tư cách “một tiếng nói cảnh báo, ngài Hayek luôn xứng đáng được lắng nghe. Ông là một thứ thuốc bổ dành cho trí tuệ. Nhưng trong thời đại bất ổn hiện nay của chúng ta, triết lý kinh tế của ông lại dẫn đường tới thảm hoạ.”

Thất vọng to lớn của Hayek trước phản ứng dành cho tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do là không hoàn toàn hợp lẽ và nó bộc lộ cả quan niệm hết sức tự tôn và sự trông đợi phi thực tế dành cho cuốn sách mà ông nghĩ có thể là một công trình nổi tiếng. Trên thực tế, đối với một công trình thuộc loại nó, tác phẩm này đã nhận được sự chú ý đáng kể, cũng như tích cực. John Davenport viết trên tạp chí Fortune, đây là một “cuốn sách ra đúng lúc và sẽ tồn tại mãi”;tờ Chicago Sunday Tribune Magazine of Books nhận xét, nó “lẽ ra phải là cuốn sách của năm trong địa hạt ý tưởng”;Arthur Kemp nhận xét trên tạp chí Journal of the American Medical Association là tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do “có đóng góp quan trọng nhất thế kỷ hai mươi vào việc tái khẳng định những nguyên lý của xã hội tự do mà sự tăng trưởng và thậm chí sự tồn tại của nền văn minh Phương Tây phụ thuộc vào”;và Henry Hazlitt, người năm 1944 từng viết một bài trên tờ New York Times Book Review về tác phẩm Con đường tới nô lệ và góp sức nhiều vào thành công của nó, cũng ca ngợi Hiến pháp về quyền tự do trong chuyên mục của mình trên tạp chí Newsweek.

Tháng 6 năm 1960, bốn tháng sau khi công bố tác phẩm, một nhà phê bình sách của tờ Wall Street Journal nhận xét, “cuốn sách đã được đón nhận tốt; các bài phê bình, thậm chí trong những nhóm thường vẫn thù địch với lập trường chống chủ nghĩa nhà nước (statism 5), đều tỏ thái độ tôn trọng. Tuy vậy, Hiến pháp về quyền tự do lại không hề có tác dụng mãnh liệt của tác phẩm Con đường tới nô lệ. Một mặt, đây là sự khích lệ. Bởi điều mà nó dường như chứng minh là quan điểm của Hayek đã được phục hồi với tư cách một lối tư duy đáng tôn trọng. Một nhà tự do cá nhân chủ nghĩa (libertarian), ‘đảng viên Đảng Whig 6cựu trào,’ người tin vào chủ nghĩa cá nhân triệt để, sẽ không còn bị coi như là một kẻ không bình thường nữa.”

Lionel Robbins viết trên tạp chí Economica, trong một bài phê bình báo hiệu sự hoà giải với Hayek, “Tôi đã viết thay vì lẽ ra là phát biểu nếu như có một cuộc thảo luận thân thiện trong seminar của các giáo chức ở đây như chúng ta vẫn tiến hành rất thường xuyên trong quá khứ. Việc nhận ra một trật tự trong xã hội vốn chưa từng được hoạch định với tư cách một tổng thể rõ ràng là có tính chất nền tảng; và chưa bao giờ vai trò quan trọng có tính mở đường của các khám phá vĩ đại ở thế kỷ mười tám trên phương diện này lại được diễn tả tốt hơn so với sự trình bày rõ ràng của giáo sư Hayek, mà bản thân nó lại là ngọn nguồn cho nhiều hiểu biết mới. Những định đề từng lặp đi lặp lại ít nhiều như vẹt suốt một trăm năm mươi năm qua đã tìm thấy ý nghĩa và và mức độ sâu sắc mà trước đây hiếm khi người ta nhận ra,” và kết luận, đây là một “công trình mà chắc chắc không một ai thậm chí với lòng hào hiệp và ý thức tối thiểu về cái đẹp lại có thể đọc mà không bày tỏ thái độ biết ơn và khâm phục – biết ơn vì sự đóng góp tuyệt vời vào cuộc tranh luận vĩ đại, khâm phục vì nhuệ khí tinh thần và sức mạnh trí tuệ đã truyền cảm hứng cho nó và khiến nó trở nên khả dĩ.”Sự rạn nứt giữ hai người đã được hàn gắn, theo sau cái chết của bà Hayek thứ nhất.

Hayek quyết định hướng những suy nghĩ cuối cùng của mình trong tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do nhằm chống lại chủ nghĩa bảo thủ, ở phần tái bút “Tại sao tôi không phải là nhà bảo thủ ” (Why I Am Not a Conservative). Ông lưu ý, trong trận chiến đương thời chống lại quyền lực nhà nước đang trên đà gia tăng, những người ủng hộ chủ nghĩa tự do cổ điển đôi khi phải liên minh với các lực lượng bảo thủ, nhưng ông không coi những liên minh chiến thuật này là sự phản ảnh các lập trường tự do chủ nghĩa hay tự do cá nhân chủ nghĩa cố hữu, vốn trái ngược với chủ nghĩa bảo thủ cũng như chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, ông thấy có nhiều điểm tương đồng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa bảo thủ hơn so với giữa một trong hai chủ thuyết đó với chủ nghĩa tự do cổ điển hay chủ nghĩa tự do cá nhân. Ông viết, “Chủ nghĩa bảo thủ, dù là yếu tố cần thiết trong bất kỳ một xã hội ổn định nào, vẫn không phải là một cương lĩnh xã hội; qua thiên hướng gia trưởng, dân tộc chủ nghĩa, và sùng bái quyền lực của nó, chủ nghĩa bảo thủ thường gần với chủ nghĩa xã hội hơn so với chủ nghĩa tự do chân chính; và với xu hướng truyền thống chủ nghĩa, phản trí tuệ, và thường là huyền bí của nó, chủ nghĩa bảo thủ sẽ không bao giờ, ngoại trừ trong những giai đoạn ngắn ngủi bị vỡ mộng, hấp dẫn được giới trẻ và tất cả những người khác vốn tin rằng một số thay đổi nhất định là đáng có nếu muốn thế giới này trở nên tốt đẹp hơn.”Đối lập với chủ nghĩa bảo thủ, trước khi xuất hiện chủ nghĩa xã hội, là chủ nghĩa tự do.

Ông đặc biệt chống đối chủ nghĩa bảo thủ bởi phương pháp tiếp cận tri thức của nó. Chủ nghĩa tự do cổ điển và chủ nghĩa tự do cá nhân ca tụng việc đạt được tri thức. Họ thừa nhận, tiến bộ nhân loại là bước tiến vào những chỗ chưa biết, và nhân loại không bao giờ có thể tiến lên được trừ khi người ta theo đuổi chân lý bất cứ nơi nào mà nó dẫn tới. Điều này không phải lúc nào cũng đúng với chủ nghĩa bảo thủ, vốn có “xu hướng phản bác lại tri thức mới, đã được chứng minh rõ ràng, bởi nó không thích một số kết cục dường như bắt nguồn từ tri thức mới đó. Bằng việc từ chối đối mặt với những thực tế, nhà bảo thủ chỉ làm suy yếu lập trường của chính mình.”Chủ nghĩa tự do cổ điển và chủ nghĩa tự do cá nhân cam kết vì lý trí và chân lý.

Nếu phải chọn giữa cánh tả và cánh hữu, ông sẽ chọn cánh tả vào thời điểm viết tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do, như cách ông từng đề tặng cuốn Con đường tới nô lệ cho “các nhà xã hội chủ nghĩa thuộc mọi đảng phái.” Trong tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do ông viết, “niềm tin vào tự do đầy đủ dựa trên thái độ chủ yếu nhìn về phía trước chứ không phải dựa trên bất kỳ nỗi khát khao hoài cổ nào hay sự thán phục viễn vông về những gì từng diễn ra. Trong một thế giới mà nhu cầu chủ yếu là một lần nữa giải phóng quá trình tăng trưởng tự phát khỏi những cản trở và gánh nặng mà sự rồ dại của con người đã dựng lên… những hy vọng [của triết gia chính trị] phải dựa vào việc thuyết phục và giành được sự ủng hộ của những người có thiên hướng ‘tiến bộ,’ những người chí ít là sẵn sàng xem xét có tính phê phán đối với thực tại và thay đổi nó khi cần thiết, cho dù họ có thể đang tìm kiếm sự thay đổi theo hướng sai lầm.”

Chủ nghĩa tự do cổ điển và chủ nghĩa tự do cá nhân là những triết lý nhìn về tương lai và mang tính duy lý. Chúng nhìn thấy những thế giới tiềm tàng, cuối cùng có thể trở thành hiện thực, chứ không phải không bao giờ. Hayek khép lại tác phẩm Hiến pháp về quyền tự do, “Tôi nghi ngờ việc liệu có thể có khái niệm gì đấy gọi là triết học bảo thủ. Chủ nghĩa bảo thủ không trao cho chúng ta bất kỳ nguyên lý định hướng nào có thể tác động đến những diễn biến dài hạn.”Ông là một nhà tự do chủ nghĩa chân chính.

Chú thích:

(1) Nhà xuất bản Đại học Chicago thành lập năm 1892, nhằm mục đích xuất bản các cuốn sách và chuyên san học thuật, hiện là nhà xuất bản đại học lớn nhất ở Mỹ. (N.D.)

(2) Herbert Clark Hoovẻ (1874-1964): Tổng thống thứ 31 của Mỹ (1929-1933). Sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, ông không muốn tài trợ cho việc làm thông qua sự can thiệp của chính quyền liên bang và mất chức tổng thổng vào tay Franklin D. Roosevelt. (N.D.)

(3) Henry Robinson Luce (1898-1967): Nhà biên tập và xuất bản, đồng sáng lập tạp chí Time (1923), Fortune (1930), Life (1936), và Sport Illustrated (1954). (N.D.)

(4) Roscoe Pound (1870-1964): Luật gia người Mỹ, hiệu trưởng Trường Luật Harvard (1916-1936) và là tác giả một số cuốn sách có ảnh hưởng, như The Spirit of the Common Law (1921). (N.D.)

(5) Sự thực hành hay học thuyết về việc trao cho một chính phủ tập quyền sự kiểm soát đối với việc hoạch định và chính sách kinh tế. (N.D.)

(6) Chính đảng ở Mỹ thế kỷ 19 được thành lập nhằm chống lại Đảng Dân chủ. (N.D.)

Nguồn: Alan Ebenstein, Friedrich Hayek - Cuộc đời và sự nghiệp, Phần V, Chương 25, Nhà xuất bản Tri Thức 2007

Dịch giả:
Lê Anh Hùng
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh

Bài viết liên quan