![[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 5)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25004.1_(1).png)
[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 5)
VIII.
Các câu trả lời tương ứng cho ba câu hỏi mà chúng ta đặt ra không phụ thuộc vào những xét đoán giá trị cụ thể nào, trừ câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên, tại đó các giá trị nhất định (chẳng hạn tự do và trách nhiệm cá nhân) được xem như là điều hiển nhiên. Có thể giả định rằng các giá trị đó đáng được chia sẻ bởi tất cả những người có mong muốn thảo luận về các vấn đề đạo đức như thế. Vấn đề nền tảng luôn là liệu chủ nghĩa xã hội có thể đem lại cái mà nó hứa hay không. Đây là một vấn đề thuần túy khoa học, ngay cả khi câu trả lời có thể phụ thuộc một phần vào một số điểm khiến cho chúng ta không thể trình bày được một cách chặt chẽ tính đúng đắn cho câu trả lời của chúng ta. Tuy thế, câu trả lời về tất cả ba vấn đề mà chúng ta đã đạt được hoàn toàn mang tính phủ định. Về mặt đạo đức, CNXH không thể tạo dựng mà chỉ phá hủy nền tảng của tất cả các giá trị đạo đức: tự do và trách nhiệm cá nhân. Về mặt chính trị, nó sớm hay muộn cũng dẫn tới chính phủ toàn trị. Về mặt vật chất, nó sẽ làm tổn hại đáng kể quá trình tạo ra của cải, nếu không muốn nói, nó là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo trên thực tế. Tất cả ba phản biện này đối với CNXH đã được đưa ra từ rất lâu trên các nền tảng thuần túy trí tuệ, và theo thời gian chúng đã được hiệu chỉnh và toàn kiện. Không có những nỗ lực nặng kí đáng kể nào trong việc bác bỏ các phản biện chống lại CNXH này một cách thuyết phục về mặt lí luận. Thực ra, điều ngạc nhiên nhất đối với việc xem xét những vấn đề này bởi đa số các nhà kinh tế chuyên nghiệp là: họ rất ít khi coi chúng là vấn đề trọng tâm của các cuộc thảo luận. Ai cũng nghĩ rằng đối với nhà kinh tế thì không có gì đáng quan tâm hơn là tính hiệu quả và lợi ích tương đối đối với phúc lợi chung của các chế độ kinh tế khác nhau. Nhưng về chủ đề này thì trên thực tế họ thật đáng xấu hổ, cứ như thể họ sợ hãi cày xới lãnh địa của họ vì tự trách mình đang dính líu đến các chủ đề “chính trị”. Họ đã bỏ mặc cuộc tranh luận lại cho những chuyên gia về “các hệ thống kinh tế”, những người đưa ra các lập luận cũ rích trong sách giáo khoa của họ, những người luôn cẩn thận tránh né việc đứng về bên nào. Cứ như thể là, việc vấn đề tranh luận đó trở thành chủ đề tranh cãi chính trị là nguyên nhân làm im tiếng các nhà khoa học, những người biết rằng họ có thể bác bỏ một cách rõ ràng ít nhất một số các lí lẽ của một bên. Thái độ trung lập kiểu này đối với tôi không phải là sự không thiên vị mà là sự hèn nhát. Đã đến lúc chúng là phải thét to lên rằng: những nền tảng trí tuệ mà CNXH dựa vào đã bị sụp đổ hoàn toàn.
Tôi phải thú nhận rằng, sau một quãng thời gian phí hoài chờ đợi 40 năm để tìm kiếm một bảo vệ có trí tuệ đáng kể bác lại những phản biện chống lại các đề án CNXH, tôi đã bắt đầu trở nên không thể kiên nhẫn hơn được nữa. Bởi tôi đã luôn nhìn nhận rằng phe theo CNXH bao gồm rất nhiều người có thiện chí, nên tôi đã cố gắng phê phán các học thuyết của họ một cách nhẹ nhàng. Nhưng thời gian đã quá đủ để kêu to lên rằng cá nền tảng trí tuệ của CNXH chứa đầy những lỗ hổng, và rằng việc phản biện chống lại CNXH được dựa trên không phải là các giá trị khác biệt hay thiên kiến gì cả, mà là lí lẽ logic không thể bác bỏ. Đây là điều cần phải được nói ra, đặc biệt về thái độ sử dụng chiến thuật thường xuyên của hầu hết những người cổ vũ hay bảo vệ CNXH. Thay vì lập luận một cách có logic để đáp trả các phản biện nền tảng, những người theo CNXH lại công kích các động cơ và thể hiện thái độ nghi ngờ về thiện chí của những người bảo vệ phe “chủ nghĩa tư bản”. Đối với tôi, những cách thức lộ liễu như kiểu xoay cuộc tranh luận từ luận điểm rằng liệu một niềm tin có đúng đắn hay không sang luận điểm rằng tại sao nó vẫn được người ta tin tưởng nó là một minh chứng hiển nhiên cho sự yếu kém về nền tảng trí tuệ của những người theo CNXH. Phản biện đá trả của người theo CNXH có vẻ thường tập trung nhiều vào việc hạ thấp uy tín tác giả thay vì bác bỏ các luận điểm của tác giả, và đây là hiện tượng khá phổ biến. Chiến thuật ưa thích của các phản biện đáp trả là cảnh báo giới trẻ đừng có quan tâm nhiều đến tác giả hoặc tác phẩm của tác giả. Thực sự là thủ đoạn này đã được phá triển tới mức độ chuyên nghiệp. Liệu một người trẻ tuổi có còn đoái hoài đến một cuốn sách, chẳng hạn cuối Constitution of Liberty [Hiến pháp tự do] của tôi, khi anh ta được một vị khả kính “cấp tiến” về khoa học chính trị của Anh quốc nói rằng đó là một trong những “con khủng long vẫn còn thỉnh thoảng xuất hiện, rõ ràng trơ lì trước sự chọn lọc của tự nhiên?”. Nguyên lí nói chung dường như là: nếu ta không thể bác bỏ được lí lẽ, hãy đánh vào uy tín của tác giả. Dù cho lí lẽ chống lại CNXH có khả năng xác thực, trung thực và có lẽ còn đúng đi chăng nữa, nhưng các học giả cánh tả này dường như không thèm ngó ngàng đến bất kì một khả năng nào, bởi có lẽ chính bản thân họ cũng đã biết rằng họ hoàn toàn sai.
Tất nhiên, sự khác biệt chính trị thường bắt nguồn từ sự khác biệt về các giá trị tối hậu, và đây là điều rất ít hoặc chẳng liên quan gì đến khoa học. Nhưng các khác biệt cốt lõi tồn tại hiện nay ít nhất là giữa những trí thức theo CNXH, những người xét đến cùng đã phát minh ra CNXH, và các đối thủ của họ không thuộc về loại này. Chúng là các khác biệt trí tuệ có thể được sàng lọc và giải quyết bằng lập luận logic giữa những người không muốn sa lầy vào một mớ bòng bong. Tôi chưa bao giờ tham gia vào bất kì một đảng phái chính trị nào. Cách đây khá lâu tôi đã làm sốc nhiều người bạn của tôi khi giải thích với họ rằng tôi không thể là một người thuộc phái bảo thủ1. Thành thực mà nói, việc
1. Hayek bày tỏ thái độ này qua bài viết: “Why I Am Not a Conservative”, được đưa vào trong phần “Tái bút” của cuốn The Constitution of Liberty, The University of Chicago Press: Chicago, 1960. [ND]
đắm mình vào tìm hiểu bản chất của các vấn đề kinh tế của xã hội đã khiến tôi trở thành một người chống CNXH triệt để. Hơn nữa, tôi thực sự tin rằng, trở thành một nhà kinh tế, thông qua việc đưa ra các lí lẽ phê phán CNXH, tôi có thể đóng góp cho cộng đồng tốt hơn bất kì phương tiện nào khác. Chống CNXH ở đây có nghĩa là chống đối lại mọi biện pháp can thiệp trực tiếp của chính phủ vào thị trường, bất kể biện pháp can thiệp đó là vì lợi ích của nhóm người nào.
Hoàn toàn không đúng khi mô tả thái độ này là thái độ laissez faire - một loại ngôn từ bôi nhọ khác thường được sử dụng để thay cho lí lẽ - bởi một thị trường vận hành tốt được đòi hỏi một khung các luật lệ thích hợp. Cũng tồn tại nhiều lí do thích đáng khác đòi hỏi chính phủ đảm nhận nhiều loại dịch vụ nằm ngoài cơ chế thị trường, vì lí do này hay lí do khác khiến thị trường không thể đáp ứng. Nhưng tất nhiên nhà nước phải không bao giờ được phép nắm giữ cái quyền độc tôn đối với bất kì loại dịch vụ nào thuộc loại như vậy, đặc biệt các loại dịch vụ bưu chính, truyền thông, hoặc việc phát hành tiền tệ.
Một số tín hiệu cho thấy thái độ lành mạnh đang quay trở lại. Nhưng tôi vẫn chưa thực cảm thấy hi vọng vào các viễn cảnh của tương lai. Có quá nhiều người phát biểu về việc các quốc gia trở nên “không thể cai quản”, nhưng lại có quá ít người nhận ra rằng các nỗ lực cai quản quá nhiều chính là mầm mống của sự lộn xộn, và thậm chí còn ít hơn nữa những người nhận ra được rằng tai ương đã và đang ngấm vào thể chế hiện hành sâu đến mức độ như thế nào. Vì sự nghiệp hướng tới các mục tiêu của mình, CNXH cần chính phủ với các quyền lực không bị giới hạn, và nó đã có được điều đó. Trong một hệ thống như thế, có nhiều nhóm khác nhau đòi nhận được cái mà họ cho rằng mình có quyền được hưởng, chứ không phải thứ mà phái đa số nghĩ là những nhóm đó xứng đáng hưởng. Do đó, việc cấp phát cho những nhóm này cái họ nghĩ rằng mình có quyền được hưởng trở thành cái giá mà một số nhóm phải trả để trở thành một đa số. Dân chủ vô hạn nhất định dẫn tới một loại CNXH, nhưng là một CNXH mà không ai có ý định hướng tới hoặc có lẽ mong muốn: một tình huống tại đó cơ quan đại diện được bầu cũng như nhóm đa số cầm quyền, với quyền lực mà nó có, phải tiến hành việc bù đắp mọi mối bất bình được tưởng tượng ra, bất kể đòi hỏi đó có đôi chút chính đáng nào hay không. Đó không phải là sự bình bầu do một đa số tiến hành về phẩm bậc của các cá nhân hoặc các nhóm, mà là quyền lực tranh giành những đặc lợi từ chính phủ, nơi giờ đây có quyền quyết định sự phân phối thu nhập, bởi những cá nhân hay những nhóm đó.
Nghịch lí là: để đảm bảo dân chủ, cái chính phủ siêu quyền lực mà CNXH cần có tất phải hướng đến việc bù đắp mọi sự bất mãn như thế, và để thỏa mãn mọi sự bất mãn đồng nghĩa với việc nó phải đãi ngộ cho các nhóm dựa trên ước tính của chính các nhóm đó về những gì mà họ xứng đáng được hưởng. Nhưng không một xã hội khả dĩ nào có thể đãi ngộ mọi người ở mức do chính anh ta ước tính. Một xã hội tại đó một số ít người có thể khai thác quyền lực để giành được cái mà họ cho rằng mình có quyền được hưởng có khả năng dẫn đến sự thiệt thòi đáng kể cho những người khác, nhưng dù thế thì xã hội đó chí ít vẫn có khả năng tồn tại được. Một xã hội tại đó mọi người hợp nhau lại thành một số nhóm nhất định nhằm áp lực chính phủ trợ giúp cho mình có được cái mà mình muốn là một xã hội tự tiêu vong. Không có cách nào ngăn cản được việc một số người nảy sinh cảm giác rằng họ bị đối xử thiếu công bằng - đấy là cái xu hướng phổ biến trong mọi chế độ xã hội, nhưng với các mô hình xã hội cho phép các nhóm người bất mãn có được cái quyền thỏa mãn những đòi hỏi của họ hoặc theo cách nói lái mới, thừa nhận “quyền được hưởng”, thì sẽ chẳng có bất kì một xã hội nào tránh khỏi tình trạng không thể quản lí được.
Ước muốn của dân chúng đòi hỏi một chính phủ dân chủ không bị giới hạn phải có trách nhiệm đáp ứng thỏa mãn là một thứ không có giới hạn. Hãy xem tuyên bố đáng lưu ý, phát biểu bởi một chính trị gia hàng đầu của Công Đảng (Anh), rằng ông ta coi mình có nghĩa vụ bù đắp mọi bất mãn! Tuy nhiên, sẽ là thiếu công bằng khi lại đi chỉ trích nặng nề các chính trị gia vì họ không được phép nói “không”. Với các mô hình chính trị đang thịnh hành, có lẽ một nhà lãnh đạo có uy tín đôi lúc có thể dám nói “không”, nhưng một đại diện cử tri thông thường, để hi vọng giữ được cái ghế của mình, không thể nói “không” đối với bất kì một lượng đáng kể cử tri của mình, dù cho các đòi hỏi của họ không chính đáng.
Trong một xã hội nơi của cải của nó phụ thuộc vào sự thích ứng nhanh chóng với các hoàn cảnh liên tục thay đổi, cá nhân có thể được hưởng quyền tự do lựa chọn những hướng đi cho mình chỉ khi các phần thưởng biến động theo những mức giá trị của các dịch vụ mà anh ta có thể cung ứng vào bể những nguồn lực chung của xã hội. Nếu thu nhập của anh ta được xác định bằng con đường chính trị, anh ta sẽ mất đi không chỉ sự khuyến khích mà còn cả khả năng quyết định cái anh ta có nghĩa vụ phải làm vì lợi ích chung. Và nếu anh ta không thể tự biết cái mình phải làm là gì để khiến các dịch vụ của anh ta trở nên có giá trị cho đồng loại của mình, anh ta sẽ phải chấp nhận bị sai bảo làm cái mà (người khác) yêu cầu. Đương đầu với sự không thỏa mãn, nghịch cảnh và sự gian khổ là một nguyên tắc mà hầu hết mọi người trong bất kì xã hội nào đều phải quy phục, và nó là một nguyên tắc mà mọi người đều chờ đợi sự tuân thủ từ những người có năng lực hành vi. Cơ chế giảm nhẹ những nỗi gian lao này trong một xã hội tự do là cơ chế (đảm bảo rằng không có ai độc đoán áp đặt chúng, và đồng thời cũng đảm bảo rằng phạm vi tác động của chúng được quyết định bởi một quá trình phi nhân, nơi mà cơ hội không được định đoạt trước.
Tôi tin rằng, sau một thời gian sống trong một chế độ XHCN, mọi người rồi sẽ nhận ra được rằng trò chơi thị trường sẽ giúp cho mọi người có được phúc lợi và địa vị xã hội tương đối tốt hơn so với việc ỷ vào ý chí của một cá nhân sáng suốt, người được ủy quyền chăm nom cho mọi người. Tuy nhiên, các xu thế hiện nay dường như lại là: những thể chế chính trị hiện tồn sẽ kiệt sức vì các nghĩa vụ mà chúng không thể gánh đỡ nổi trước khi một ý tưởng như trên lan đủ rộng. Sẽ chẳng thể nào xây dựng được một xã hội tử tế trừ phi dân chúng học được cách chấp nhận rằng đa số sự bất mãn của họ là không chính đáng, và họ không nên lấy chúng để đòi hỏi những người khác, và rằng trên thế giới này không nên coi chính phủ là một bộ máy hiệu quả có khả năng gánh vác trách nhiệm trong việc mang lại hạnh phúc cho các nhóm người cụ thể. Rồi thì, những người có lí tưởng nhất trong số những người theo CNXH sẽ bị dồn đến phải phá hủy nền dân chủ để phục vụ cho cái viễn cảnh CNXH lí tưởng của họ trong tương lai. Những xu thế hiện tại cho thấy rằng sẽ có sự nổi dậy của một lực lượng đông đảo những người mà chính phủ không thể thoái thác trách nhiệm phải đáp ứng phúc lợi và địa vị xã hội của họ, và sự nổi loạn của họ vì lí do không được trả đầy đủ, hoặc vì bị yêu cầu phải làm nặng nhọc hơn mức mà họ thích, ắt sẽ bị đàn áp bằng roi da và súng máy: đây cũng là kết cục gây ra bởi chính những con người thực tâm có ý định làm thỏa mãn tất cả ước muốn của mọi người.
Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch.