![[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 2)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25004.1_(1).png)
[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 2)
IV.
Vậy bây giờ cho phép tôi đóng vai nhà mô phạm. Tôi sẽ cố gắng chỉ ra một cách chính xác những loại xét đoán giá trị nào có khả năng chấp nhận được trong thảo luận khoa học và những loại nào thì không thể. Khởi điểm của chúng ta phải là một chân lí logic (logical truism): từ các tiền đề logic chứa đựng chỉ những mệnh đề về nhân-quả, chúng ta sẽ không thể suy ra được các kết luận về điều chúng ta phải làm. Một mệnh đề [thuần túy nhân-quả] như thế sẽ chẳng dẫn đến một hành động khi mà chúng ta vẫn không biết (hay không đồng ý) đâu là những hậu quả đáng muốn và không đáng muốn [của hành động]. Nhưng một khi chúng ta đưa vào cùng các tiền đề logic ban đầu của chúng ta bất kì một mệnh đề nào về tầm quan trọng hay mức độ nguy hại của các mục đích hay hậu quả khác nhau của hành động, thì chúng ta có thể rút ra các chuẩn mực khác nhau thuộc mọi kiểu đòi hỏi hành động phải tuân thủ. Chúng ta rõ ràng chỉ có thể bàn luận nghiêm túc về các vấn đề xã hội với những người mà chúng ta có chung ít nhất một số giá trị. Tôi nghi ngờ liệu chúng ta có thể thực sự hiểu ai đó nói gì nếu như chúng ta không chia sẻ những giá trị chung nào đó với anh ta. Dù sao thì điều này cũng có nghĩa là, xét về mặt thực tiễn, trong bất kì cuộc bàn luận nào, trên nguyên tắc, chúng ta đều có khả năng chỉ ra được một số trong những chính sách mà một ai đó cổ xúy không nhất quán hay không thể dung hòa được với một số giá trị niềm tin nhất định nào đó của anh ta.
Điều này dẫn tôi đến việc phải phân tích sự khác biệt cơ bản giữa các thái độ chung về những vấn đề đạo đức, điều được xem như là nét đặc trưng của các bên tham gia tranh luận chính trị hiện nay. Kẻ theo phe bảo thủ tin rằng có các giá trị tuyệt đối và nói chung khoan khoái bám chặt vào chúng. Một mặt tôi cảm thấy ghen tị với họ về sự khoan khoái đó thì mặt khác tôi không thể chia sẻ với họ về những niềm tin đó. Đấy là số phận của nhà kinh tế muốn tiếp tục đương đầu với các xung đột thực sự về giá trị; thực ra thì việc phân tích cách thức giải quyết các xung đột này chính là trách nhiệm nghề nghiệp của anh ta. Các xung đột mà tôi muốn nhắc tới ở đây không phải là những loại xung đột khá hiển nhiên giữa các giá trị mà những cá nhân khác nhau sở đắc, hay các sự khác biệt giữa những hệ thống các giá trị cá nhân, mà là những xung đột và khiếm khuyết bên trong hệ thống các giá trị của bất kì cá nhân nào. Quả là rất khó khăn khi phải đối diện với sự thực rằng hoàn toàn không có những giá trị tuyệt đối, nhưng chúng ta vẫn bắt buộc phải thừa nhận điều đó. Ngay cả bản thân mạng sống của con người cũng chẳng phải là một cái gì đó có giá trị tuyệt đối. Chúng ta vẫn liên tục sẵn sàng hi sinh, và bắt buộc phải hi sinh một cái gì đó, vì một số những giá trị khác cao hơn, ngay cả khi cái phải hi sinh là mạng sống của một con người để cứu được mạng sống của nhiều người khác.
(Ở đây có một điểm thú vị mà rất tiếc tôi không thể xem xét được. Dù có lẽ chúng ta không bao giờ tự cho phép mình hủy hoại một mạng người cụ thể, thế nhưng lại liên tục đưa ra những quyết định mà chúng ta biết rằng sẽ dẫn đến cái chết của một số người mà chúng ta không quen biết).
Nhưng những người theo chủ nghĩa tự do cá nhân, tức những người theo chủ nghĩa tự do chân chính chứ không phải là những người theo chủ nghĩa xã hội màu hồng (pink socialists), (những người mà Josef Schumpeter mô tả là “cảm thấy sung sướng không thể kìm nén vì nghĩ rằng việc họ lựa chọn nhãn hiệu này là một hành động sáng suốt”), không sa vào thái cực đối nghịch mà những người theo CNXH rơi vào: Những người theo CNXH tin rằng họ có thể xây dựng được một hệ thống đạo đức hoàn toàn mới nào đó theo kiểu họ mong muốn mà không cảm thấy e ngại gì cả, vì rằng hệ thống mới này hứa hẹn đem lại hạnh phúc lớn hơn cho con người (tuy nhiên, trên thực tế họ đơn thuần quay trở về các bản năng ban sơ kế thừa từ xã hội nguyên thủy). Mặc dù người theo chủ nghĩa tự do cá nhân tất sẽ phải khẳng định rằng mình có quyền xem xét một cách phê phán mọi giá trị hay quy tắc đạo đức đơn lẻ của xã hội mình đang sống, nhưng anh ta cũng biết rằng anh ta có nghĩa vụ làm điều này và có thể làm được điều đó trong khi vẫn chấp nhận hầu hết các giá trị xã hội khác của xã hội hiện tại như là những thứ có sẵn hầu có thể đạt được mục đích xem xét lại từng giá trị kia. Khi xem xét lại cái giá trị mà anh ta nghi ngờ anh ta luôn phải cân nhắc đến tính tương hợp của nó với phần còn lại của hệ thống các giá trị đang thịnh hành.
Thực ra thì nhiệm vụ [xem xét lại các giá trị đạo đức của chúng ta là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để giải quyết các xung đột đạo đức, hoặc để bổ sung những cái còn thiếu vào trong những khoảng trống trong kho tàng đạo đức của chúng ta - và chúng ta chỉ có thể đảm đương được trách nhiệm đó nếu như cố gắng hiểu được sự tồn tại của cái trật tự hòa bình và của các nỗ lực điều chỉnh tương hỗ; đấy là cái giá trị tối cao mà hành xử đạo đức của chúng ta cố gắng vun đắp. Các quy tắc đạo đức của chúng ta phải liên tục được kiểm nghiệm lẫn nhau, và nếu cần thì điều chỉnh để tương hợp lẫn nhau, nhằm loại bỏ những xung đột trực tiếp tồn tại giữa những quy tắc khác nhau, và cũng nhằm bắt chúng phục vụ việc duy trì cái trật tự khả dĩ để cho con người hành động.
Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch.