[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 4)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 4)

Quá trình khám phá thực sự

Cấm đoán tạo ra bộ máy quan liêu không phải nhằm can thiệp vào thị trường mà là thay thế thị trường. Định hướng của chính phủ vào hoạt động kinh tế về bản chất là khác hẳn với vòng quay thị trường. Trong khi hoạt động trên thị trường (sản xuất) diễn ra trong một môi trường cạnh tranh, do lợi nhuận dẫn dắt thì định hướng của chính phủ (thi hành lệnh cấm) được thực hiện trong một môi trường hành chính quan liêu, do những qui định dẫn dắt. Động cơ và khuynh hướng hành động của các chủ doanh nghiệp là lợi nhuận; còn các quan chức thì làm theo luật lệ và không nhận được bất cứ khoản lợi nhuận nào.

Sự thiếu hiệu quả toàn diện của bộ máy quan liêu là điều mà ai cũng biết và không thể tránh khỏi. Do không có động lực nên các quan chức không tìm cách giảm thiểu chi phí sản xuất. William Niskanen (1971) phát hiện ra rằng bộ máy hành chính quan liêu có thể hoạt động tương tự như những công ty độc quyền vì họ có lợi thế thông tin so với các chính trị gia. Bộ máy hành chính quan liêu cung cấp hầu hết các thông tin giúp những đại biểu được bầu dùng làm căn cứ cho những lá phiếu của họ dựa trên những đòi hỏi về ngân sách. Stigler (1977) phát hiện ra rằng những lợi ích của các ngành công nghiệp bị kiểm soát chi phối các cơ quan hành chính quan liêu. Còn C. M. Lindsey (1976) thì phát hiện ra rằng bộ máy quản lí hành chính quan liêu hướng sản xuất ra khỏi những hoạt động đáng mong muốn sang những hoạt động có thể theo dõi được. Các quan chức thấy rằng hướng nguồn lực vào các khu vực làm ra những kết quả “nhận thấy được” chứ không phải là vào khu vực có giá trị hơn nhưng không đo đếm được thì họ (hay ngân sách của họ) sẽ được lợi hơn. Ngay cả trong trường hợp ít xảy ra là không có bất kì vấn đề nào về động cơ thì bộ máy quản lí hành chính quan liêu cũng gặp phải nhiều vấn đề về thông tin, như Mises ([1944] 1969) đã miêu tả.

Các doanh nghiệp được khuyến khích áp dụng những phương pháp sản xuất mới, những kĩ thuật mới giúp cắt giảm chi phi, nâng cao sản phẩm và những dịch vụ mới nhằm tránh thiệt hai và thu được lợi nhuận. Quá trình khám phá này được thực hiện một cách dễ dàng hơn bởi thị trường bao gồm rất nhiều chủ doanh nghiệp, những người phát triển các cách tân được công nhận rộng rãi và dễ dàng sao chép. 

Các quan chức không xa hoa như vậy. Các cơ quan quản lí hành chính quan liêu nhận chỉ đạo và định hướng từ trung ương theo luật, họ ít tiếp cận với những cách tân từ bên ngoài. Không có bất kì một qui trình mang tính hệ thống nào dẫn tới kết quả là các quan chức kém hiệu quả sẽ bị thay thế hay các quan chức làm việc hiệu quả được thăng quan tiến chức, ngay cả khi các quan chức được giả định là làm việc vì mục đích tốt. Trên thực tế, nguyên tắc Peter giả định một điều ngược lại, rằng các quan chức được đôn lên chức vụ cao nhất nhờ sự bất tài của họ. Hơn nữa, có rất ít cơ hội cho việc khuyến khích những khám phá do các quan chức thực hiện hay tưởng thưởng cho các quan chức có khám phá.

Như vậy là, bộ máy quản lí hành chính quan liêu không thể mô phỏng được những khám phá hay thành công của thị trường. Họ không thể nào biết thị trường sẽ làm gì trong những hoàn cảnh nhất định và chẳng có mấy động cơ để tìm hiểu chuyện đó. Vì thiếu động cơ dẫn tới kết quả là người ta ít khi khám phá ra những kỹ thuật có tác dụng cắt giảm chi phí và kỹ thuật sản xuất. Trên thực tế, những cơ quan quản lí hành chính thành công thường bị cắt giảm ngân sách, còn những quan chức sáng tạo thường bị trừng phạt, cách chức hoặc miễn nhiệm. Ví dụ, hai trong số những người thực hiện Luật cấm rượu thành công nhà là Izzy Einstein và Moe Smith, đã bị sa thải vì họ đã làm việc một cách trung thực và hiệu quả. “Hai người này đã đột kích ba ngàn quán rượu lậu và bắt giữ 4.900 người. Họ đã tịch thu năm triệu chai rượu lậu và phá hủy hàng trăm thiết bị nấu rượu. Trong mỗi hộ gia đình dọc các bờ biển, Izzy và Moe là bằng chứng sống rằng các nhân viên thi hành những biện pháp cấm đoán có thể là những người trung thực và liêm khiết. Nhưng, nổi tiếng về lòng trung thực dường như phải trả giá bằng con số không khi chỉ được tưởng thưởng bằng cách cho nghỉ việc” (Coffey, 1975).

Quá trình khám phá bị bóp nghẹt

Bộ máy quản lí quản lí hành chính quan liêu không những không có khả năng khám phá mà họ còn bóp nghẹt quá trình khám phá của thị trường. Những biện pháp cấm đoán bóp chết hoàn toàn quá trình khám phá của thị trường đối với những món hàng không có trong luật.

Người ta đã biết rõ một số ảnh hưởng trực tiếp từ sự can thiệp của chính phủ. Kiểm soát tiền thuê nhà dẫn đến tình trạng thiếu nhà ở; tiền lương tối thiểu là nguyên nhân gây ra nạn thất nghiệp. Những kết quả này có thể được nhìn thấy qua biểu đồ cung-cầu, nhưng những ảnh hưởng cơ bản này không phải là chỉ phí duy nhất đến từ sự can thiệp của chính phủ.

Ngoài ra, can thiệp cũng không khuyến khích sự phát triển các kỹ thuật mới, các sản phẩm mới, những đặc điểm mới của sản phim, những tính năng an toàn cũng như các nguồn cung mới. Chính những hình thức khám phá này theo thời gian đã chứng minh rằng sự can thiệp là không cần thiết, nhưng lại không thể xảy ra vì có những biện pháp can thiệp.

Mặc dù chúng ta không thể biết số lượng những cơ hội bị bóp nghẹt, nhưng chúng vẫn là cái giá phải trả cho những biện pháp can thiệp. Trong trường hợp cấm đoán, giá phải trả là đáng kể bởi vì quá trình khám phá của thị trường không chỉ đơn giản là bị bóp ngẹt mà còn bị phá hủy hoàn toàn vì những hàng hóa mới khám phá bị tước đoạt hoặc bóp méo để lấy chỗ cho những hàng hóa có liên
quan.

Những quá trình khám phá không cần thiết

Việc loại bỏ hoặc kiểm soát một hoạt động kinh tế cụ thể đã tạo cơ hội tìm kiếm lợi nhuận mà trước đó không chưa hề có. Những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận này nhiều khả năng sẽ phá vỡ kế hoạch của các cơ quan quản lí và làm nản chí những người làm luật và các nhà hoạch định chính sách của chính phủ. Mức độ nghiêm trọng của những biện pháp can thiệp quyết định độ lớn của những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận mới này (chợ đen). Vì vậy, quá trình khám phá không cần thiết này đặc biệt liên quan đến cấm đoán.

Những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận do cấm đoán tạo ra sẽ dẫn đến những phương pháp sản xuất, vận chuyển, lưu kho, phân phối và tiếp thị mới. Sản phẩm, chất lượng và các thuộc tính của nó sẽ thay đổi rất nhiều khi chuyển từ thị trường cạnh tranh sang thị trường bị chi phối bởi cấm đoán. Tất nhiên những thay đổi này là do chính sách can thiệp chứ không phải do thị trường. Cave và Reuter (1988) nhận thấy rằng các chủ doanh nghiệp (những người buôn lậu) học hỏi từ kinh nghiệm, sự gia tăng hiểu biết có thể làm cho hàng hóa rẻ đi ngay cả trong những giai đoạn có thêm nhiều nỗ lực cấm đoán.

Các quan chức cũng có thể tham gia vào quá trình khám phá không cần thiết này. Bình thường, các quan chức không thể đóng vai những người hưởng phần dư (residual claimants) từ bộ máy quan liêu của họ để có thể tận dụng những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận do cấm đoán tạo ra có thể được những người buôn bán trên thị trường cho đen chia cho các quan chức để trả công cho việc bảo kê hay thị hành lệnh cấm một cách có chọn lọc. Hối lộ và tham nhũng là kết quả ngoài ý muốn nhưng lại được kì vọng từ sự can thiệp của chính phủ. Hơn nữa, bởi cấm đoán là hình thức can thiệp cực đoan của chính phủ nên tham nhũng do cấm đoán gây ra sẽ nhiều hơn tham nhũng do kiểm soát giá cả hoặc điều tiết.

Nhằm so sánh mức độ nghiêm trọng của cấm đoán với những hình thức can thiệp khác xin hãy tưởng tượng mức hỗ trợ giá sữa là 150 đô-la một gallon. Thậm chí ở mức hỗ trợ như hiện nay, chương trình hỗ trợ giá sữa cũng vẫn đang lôi kéo thêm những nhà cung cấp mới vào thị trường. Chương trình này khuyến khích việc phát triển những con bò sữa đặc biệt, sử dụng những kích thích tố và hóa chất đặc biệt và những kỹ thuật chăn nuôi đắt tiền. Chỉ cần buôn lậu và tham nhũng một khoản nhỏ cũng có thể bị phát hiện. Nếu hỗ trợ ở mức 150 đô-la/một gallon thì có thể tưởng tượng sẽ có những quả tên lửa chứa đầy sữa bột được bắn vào Mĩ và những loại sữa nhân tạo sẽ được sản xuất bằng phương pháp hóa học trong các phòng thí nghiệm, và các nhà kinh tế học sẽ trở thành nông dân nuôi bò sữa.

Tóm lại, cấm đoán được ủng hộ là do người ta đã hiểu sai khả năng của thị trường trong việc giải quyết những vấn đề xã hội (mặc dù hoạt động tìm kiếm lợi nhuận đặc quyền thường là bắt buộc để thực thi cấm đoán, như được chỉ ra trong Chương 2). Các cơ quan quản lí hành chính quan liêu do những biện pháp cấm đoán lập ra vốn đã hoạt động thiếu hiệu quả và không thể khám phá được những tri thức cần thiết để giải quyết những vấn đề xã hội. Cấm đoán cũng ngăn chặn những khả năng của thị trường trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, do đó sẽ có rất ít hoặc chẳng có tiến bộ nào trong khi đang thi hành những biện pháp cấm đoán. Và cuối cùng, cấm đoán tạo ra những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận, tức là tạo ra thêm những vấn đề cần giải quyết đặt ra cho việc cấm đoán định.

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường