Hiến pháp trị là gì? (Phần 2)

Hiến pháp trị là gì? (Phần 2)

Chức năng thứ nhất của hiến pháp tự do là xây dựng quyền lực và cung cấp quyền lực. Dưới thuyết hiến pháp trị tự do, toàn bộ hệ thống chính quyền được tạo dựng bởi hiến pháp. Bản hiến pháp định nghĩa, phân phối và chỉnh đốn quyền hạn chính quyền. Trong hệ thống hợp hiến, thường có các cuộc bầu cử định kỳ để duy trì chủ quyền của quần chúng. Đồng thời cũng hiện hữu nguyên tắc phân ngăn cùng kiểm soát và cân bằng quyền lực. Thuyết hiến pháp trị tự do cũng đề nghị pháp trị là quy tắc tiêu chuẩn trong việc thực thi quyền lực của chính quyền. Cuối cùng, hiến pháp tự do đặt giới hạn lên quyền tùy nghi và khẩn cấp của nhà nước. Yếu tố thứ nhì của thuyết hiến pháp trị tự do là bảo vệ [dân] quyền. Dưới thuyết hiến pháp trị tự do, phải có quyền tự do hiến định về ngôn luận, nhân thân, và tài sản. Thêm vào đó còn có cơ quan tư pháp độc lập hoặc các cơ quan độc lập có thẩm quyền tư pháp làm nhiệm vụ giám sát pháp lý nhằm xem xét tính hợp hiến của các đạo luật của lập pháp và nghị định của hành pháp. Việc tái xét tính hợp hiến của các cơ quan độc lập, thường ở dưới dạng giám sát pháp lý, thật cần thiết cho việc bảo vệ quyền của cá nhân, và nó cũng là yếu tố quan trọng cho việc duy trì nguyên tắc phân ngăn quyền lực cùng kiểm soát và cân bằng quyền lực đã được hiến pháp ủy thác.

Chúng ta có thể dùng Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ để minh họa hai thành tố của thuyết hiến pháp trị. Bản Hiến Pháp đầu tiên năm 1787 đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng quyền lực và cung cấp quyền lực. Quyền lực của chính quyền Mỹ đã được phân phối theo hai chiều: một là chiều ngang, và một là chiều dọc. Đi theo chiều ngang, quyền lực chính quyền được phân phối giữa ba nhánh của chính quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đi theo chiều dọc, quyền lực của chính quyền được phân phối giữa chính quyền liên bang và tiểu bang.

Hiến Pháp Hoa Kỳ đã được bổ sung vào năm 1791 với Đạo Luật Dân Quyền, nhờ đó tăng cường cho Hiến pháp chức năng bảo vệ dân quyền. Đạo Luật Dân Quyền đầu tiên bao gồm 10 Tu chính án. Trong vòng hai trăm năm qua đã có các Tu Chính Án khác được bổ sung vào hầu để cung cấp thêm việc bảo vệ dân quyền và cải thiện cơ cấu quyền lực của chính quyền.

Dùng Hiến Pháp Hoa Kỳ làm thí dụ, nay ta hãy phân tích mỗi thành phần của hiến pháp tự do kỹ lưỡng hơn. Căn cứ trên nguyên tắc xây dựng và cung cấp quyền lực, ta có hai khái niệm chính yếu là “phân ngăn quyền lực” và “kiểm soát và cân bằng.” Một số tác giả Trung Quốc đã hiểu lầm và tin rằng phân ngăn quyền lực nghĩa là hoàn toàn tách riêng quyền hạn lập pháp, hành pháp và tư pháp. Một học giả Trung Quốc đã từng hỏi tôi tại sao Tổng thống Hoa Kỳ lại có quyền hạn phủ quyết các đạo luật của cơ quan lập pháp? Không phải quyền phủ quyết của bên hành pháp đã vi phạm chân lý căn bản của nguyên tắc phân ly quyền lực sao? Một học giả khác hỏi tại sao Thượng Nghị Viện lại điều khiển phiên tòa xét xử tổng thống Hoa Kỳ? Không phải việc này đã xâm phạm vào quyền tư pháp của Tòa án hay sao? Những câu hỏi này đã được đưa ra chỉ vì sự hiểu lầm về nguyên tắc phân ngăn quyền lực nói trên. Thật ra sự hiểu lầm này đã là nền móng cho một phản đối trọng đại đối với Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ 1787. “Trong cơ cấu tổ chức của chính quyền liên bang, [nhóm phản đối chủ trương Liên bang đã nói][1] hình như không hề có quan tâm nào đến sự đề phòng cần thiết để bảo vệ tự do, [nghĩa là cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cần phải được cách ly và khác biệt]. [Nhóm này lập luận rằng] nhiều cơ quan thẩm quyền được phân phối và hòa nhập khiến cho cùng một lúc chúng phá hủy tất cả tính cách đối xứng và đẹp đẽ về hình thức, đồng thời tạo nguy cơ cho một số phần tử quan trọng của cấu trúc [chính trị] bị đè bẹp bởi sức nặng không cân bằng của các phần tử khác” (Luận cương Liên bang (LCLB), số 47). Những nhà phê bình của Bản Hiến Pháp 1787 hình như đã hiểu lầm Montesquieu khi cho rằng cách ly quyền lực có ngụ ý là phân cách hoàn toàn các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tuy nhiên, các thành viên Nhóm Liên bang, đặc biệt là James Madison, đã có hiểu biết khác biệt về phân ngăn quyền lực. Theo Madison, nhóm phản đối Hiến Pháp 1787 đã diễn giải sai lý thuyết về cách ly quyền lực của Montesquieu. Ý nghĩa thật sự của lý thuyết Montesquieu là “khi quyền lực toàn bộ của một cơ quan được thi hành bởi cùng bàn tay đang nắm giữ quyền lực toàn bộ của một cơ quan khác, nguyên tắc cơ bản của hiến pháp tự do đã bị lật đổ … Nếu chúng ta nhìn vào hiến pháp của nhiều quốc gia, chúng ta sẽ thấy rằng … không có tình huống nào mà quyền lực của nhiều cơ quan lại được giữ cho cách biệt và khác biệt một cách tuyệt đối” (Luận cương Liên bang (LCLB), số 47).

Theo các thành viên của Nhóm Liên bang, khái niệm phân ngăn quyền lực không thể hiểu riêng biệt với khái niệm kiểm soát và cân bằng quyền lực. Phân ngăn quyền lực không có nghĩa là cách ly toàn bộ và phân chia giới tuyến tuyệt đối giữa các nhánh của chính quyền. Cách ly toàn bộ sẽ khiến cho chính quyền hỗn loạn, không hoạt động và có thể trở thành nguy hiểm. Đây là lý do khiến phân ngăn quyền lực phải được kết hợp với kiểm soát và cân bằng quyền lực. Qua việc giao phó cho mỗi nhánh của chính quyền một số quyền hạn trên những nhánh khác, hay theo Madison nói, “một phần chức năng” của các nhánh khác, hệ thống hợp hiến về kiểm soát và cân bằng quyền lực được tạo nên để đề phòng một nhánh của chính quyền trở thành quá hùng mạnh và vì thế nguy hiểm. Tức là, nguyên tắc kiểm soát và cân bằng quyền lực làm việc để phòng ngừa sự tập trung quyền lực chuyên chế. Chẳng hạn như, Nhóm Liên bang lập luận rằng nếu không có quyền phủ quyết của bên hành pháp, thì bên lập pháp sẽ dần dần chiếm hết quyền hành của chính quyền. Theo Madison, “chỉ phân chia giới tuyến trên giấy về giới hạn hợp hiến của các cơ quan không đủ để đề phòng những xâm phạm dẫn đến sự tập trung chuyên chế toàn bộ quyền lực chính quyền vào cùng bàn tay.” Đối với Madison, “trừ khi các cơ quan này có sự liên hệ và hòa nhập đến độ mỗi bên đều có quyền kiểm soát hợp hiến đối với bên kia, thì mức độ cách ly, mà nguyên tắc (phân ngăn quyền lực) đòi hỏi, và cũng là điều cần thiết cho một chính quyền tự do, sẽ không thể giữ vững được trong lúc thi hành” (LCLB, số 48).

Ngoài chuyện đề phòng chuyên chế, nguyên tắc kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa các nhánh, chẳng hạn như quyền phủ quyết của bên hành pháp, quyền phủ quyết của bên lập pháp đối với một số bổ nhiệm của Tổng thống, và quyền luận tội các thẩm phán của bên lập pháp, cũng được thiết lập để cho chính quyền như một cơ cấu toàn bộ được khôn ngoan hơn và phải chịu trách nhiệm cho quyền lợi lâu dài của quần chúng. Thí dụ, quyền phủ quyết của bên hành pháp khiến cho các đạo luật của bên lập pháp phải chịu giám sát của cả bên lập pháp lẫn Tổng thống trước khi chúng trở thành luật thực thụ, như vậy xác suất của một đạo luật xấu được ban hành sẽ giảm thiểu. Việc áp đặt quyền phủ quyết hành pháp không dựa trên giả thuyết vu vơ rằng Tổng thống thông minh hơn cơ quan lập pháp; thay vì vậy, nó dựa trên điểm cơ quan lập pháp có thể sai lầm.

Nói tóm lại, “ý nghĩa thật sự của nguyên tắc [phân ngăn quyền lực] … hoàn toàn thích hợp với một “hỗn hợp cục bộ” [tức là một hỗn hợp bao gồm một phần chức năng của những cơ quan khác nhau] được tạo thành cho những mục đích đặc biệt, và bảo toàn cho chúng, một cách tổng quát,vẫn được riêng rẽ và khác biệt. Trong vài trường hợp, hỗn hợp này không những thích đáng, mà còn cần thiết cho việc phòng thủ lẫn nhau giữa của các thành viên trong chính quyền” (LCLB, số 66).

Tài liệu tham khảo:

1. Hamilton, Alexander, James Madison and John Jay. The Federalist Papers. London: Everyman, 1996.

2. Henkin, Louis. “Elements of Constitutionalism.” Unpublished Manuscript, 2000.

3. Holmes, Stephen. Passions and Constraint: On the Theory of Liberal Democracy. Chicago: University of Chicago Press, 1995.

4. Mahler, Gregory. Comparative Politics: An Institutional and CrossNational Approach. Upper Saddle River, New Jersey: Prentice Hall, 2000.

5. Sartori, Giovanni. The Theory of Democracy Revisited. Chatham, New Jersey: Chatham House, 1987.

Ghi chú:

[1] Khi hiến pháp của Mỹ được soạn thảo năm 1787, chính giới Hoa Kỳ chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những người chủ trương thành lập một chính quyền liên bang mạnh gồm rất nhiều quyền lực. Đại biểu cho nhóm này, còn gọi là nhóm Federalists, là James Madison, Alexander Hamilton và John Jay. Nhóm thứ hai gồm những người chủ trương bảo vệ quyền của tiểu bang, bỗng trở thành những người chống chủ trương thành lập chính quyền liên bang, dù cũng nhận thức được nhu cầu phải thành lập một chính quyền liên bang mạnh. Đại biểu cho nhóm này, còn gọi là nhóm anti-Federalists, là Patrick Henry và George Mason. Khi bản hiến pháp được trình cho các tiểu bang phê chuẩn, phe anti-Fedralists cho in trên báo chí các luận cương chống lại chủ trương liên bang, các tác giả đồng ký một tên chung là Brutus. Phe ủng hộ liên bang bèn cho ấn hành các luận cương trên báo chí để phản bác lập luận của phe anti-Federalist, và cùng ký một tên là Publius. Tất cả các tiểu luận của cả hai phe đều được ấn hành thành sách sau này. Luận cương về Chính quyền Liên bang (the Federalist Papers) được xem là một lý thuyết chính trị về Hiến Pháp Trị. [HVCD].

Nguồn bản dịch: Lý Ba. Hiến pháp trị là gì? http://www.icevn.org/vi/HienPhapTriLaGi