Khuyến nghị cải cách thể chế kinh tế trong kỷ nguyên vươn mình

Khuyến nghị cải cách thể chế kinh tế trong kỷ nguyên vươn mình

Để có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong kỷ nguyên mới khi hướng đến trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045, cải cách thể chế được xác định là “chìa khóa” để giải quyết “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Dưới đây là các khuyến nghị của chúng tôi về cải cách thể chế kinh tế trong giai đoạn tới đây.

1. Cải cách hệ thống pháp luật về kinh tế

Về cải thiện chất lượng của hệ thống pháp luật kinh tế

Hiện tại Quốc Hội đã quyết định đổi mới nguyên tắc lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề mang tính ổn định, lâu dài, trao quyền cho Chính phủ cụ thể hóa các quy định. Đây là một hướng đi đúng để cải thiện chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung trong đó có các luật trong lĩnh vực kinh tế được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, Tuy nhiên, luật khung cũng đặt ra gánh nặng lớn cho Chính phủ và các bộ, ngành trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Để đảm bảo các văn bản dưới luật được ban hành không trái với luật, cần tăng cường vai trò của nhánh tư pháp trong việc xác định xem liệu một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan hành pháp cấp trung ương và địa phương có trái luật không. Nếu phát hiện trái luật, các thẩm phán từ cấp tỉnh trở lên có thể yêu cầu tạm dừng áp dụng để xem xét kỹ lưỡng.

Để cải thiện chất lượng, Quốc Hội vẫn cần yêu cầu các cơ quan soạn thảo phải thiết lập các yêu cầu về chính sách rõ ràng đối với mỗi văn bản soạn thảo để dựa vào đó đánh giá chất lượng soạn thảo (có đáp ứng đúng yêu cầu chính sách ban đầu không) cũng như đặt ra các chỉ số rõ ràng trong thẩm tra, thẩm định các dự thảo văn bản pháp luật trong quá trình soạn thảo.

Cần xây dựng một cơ chế đủ chi tiết về sự tham gia của công chúng nói chung, và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng, vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật tại Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật. Đặc biệt là tới đây, luật chủ yếu ban hành ở dạng nguyên tắc và rất nhiều vấn đề chính sách sẽ nằm trong các nghị định nên cần phải thực sự tạo điều kiện mở rộng cơ hội tham gia của các bên có lợi ích liên quan trong quá trình xây dựng các văn bản dưới luật. Cần đăng tải công khai đầy đủ không chỉ dự thảo văn bản pháp luật mà còn cả các tài liệu có liên quan như đánh giá tác động chính sách, góp ý khác nhau của doanh nghiệp, việc tiếp thu của cơ quan soạn thảo.

Về lâu dài, cần có lộ trình nâng cao tính độc lập và chất lượng làm luật của cơ quan lập pháp (Quốc hội) để đảm bảo tính phân lập và tránh gánh nặng trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn luật của cơ quan hành pháp (Chính phủ).

Về pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền tài sản

Nhanh chóng ban hành các văn bản pháp luật công nhận và bảo vệ các loại tài sản số, bao gồm bitcoin, tiền ảo, tiền tệ kỹ thuật số (tiền ảo, tiền điện tử, tiền mã hóa), tài sản vô hình (tài sản trong game, tài sản trí tuệ, video, tranh ảnh kỹ thuật số) và tài sản vật chất được số hóa tranh ảnh vật lý, tài sản tài chính, v.v.

Cần đẩy mạnh áp dụng công nghệ để nhanh chóng xác lập quyền sử dụng đất và các tài sản gắn với đất thống nhất trên toàn quốc.

Tăng cường thực thi các biện pháp bảo vệ tài sản trí tuệ (bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thương hiệu, tác phẩm văn học, nghệ thuật, phần mềm...) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Việc hoàn thiện khung pháp lý về sở hữu trí tuệ không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của các nhà sáng tạo mà còn tạo ra động lực đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, góp phần gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm và dịch vụ.

Về pháp luật liên quan đến gia nhập thị trường

Tiếp tục rà soát số ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư và tại các luật chuyên ngành có liên quan; loại bỏ những điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể; loại bỏ các loại giấy phép con; và chuyển đổi cách thức quản lý sang “hậu kiểm” đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Cần có những hướng dẫn rõ ràng đối với việc đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề chưa được liệt kê rõ trong Hệ thống ngành nghề kinh doanh hoặc không thuộc văn bản chuyên ngành.

Cần có các quy định đơn giản, áp dụng riêng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up), đặc biệt là các quy định liên quan đến kế toán, thuế, lao động, góp vốn v.v.

Cần tiếp tục đẩy mạnh áp dụng công nghệ số để rút ngắn quy trình và thời gian cấp phép và đăng ký thành lập doanh nghiệp; loại bỏ sự trùng lặp giữa thủ tục đăng ký kinh doanh (quy định trong Luật Doanh nghiệp) và đăng ký đầu tư (quy định trong Luật Đầu tư).

Về pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh trên thị trường

Rà soát để điều chỉnh, loại bỏ các quy định pháp luật hạn chế bất hợp lý hoặc vượt quá mức cần thiết các hoạt động và quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác (đặc biệt là trong pháp luật kinh doanh chuyên ngành) như các điều kiện về nhân lực, điều kiện về vốn, điều kiện về kỹ thuật, điều kiện về quy trình hoạt động v.v.

Rà soát, loại bỏ những quy định không cần thiết liên quan đến xem xét, chấp thuận chủ trương đầu tư trong Luật Đầu tư.

Tăng cường sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh trong bối cảnh vai trò của khu vực doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng; cần đảm bảo rằng các doanh nghiệp tư nhân được cạnh tranh trong điều kiện bình đẳng thực tế và thực chất với DNNN và doanh nghiệp FDI; ngăn ngừa tình trạng thân hữu trong hoạt động kinh doanh trên thị trường.

Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh và pháp luật liên quan (bảo vệ người tiêu dùng và phòng vệ thương mại) và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh.

Về pháp luật về rút khỏi thị trường

Cần có cơ chế giám sát, phát hiện và xử lý đối với các trường hợp tự ngừng sản xuất kinh doanh mà không thực hiện thủ tục giải thể, phá sản theo quy định.

Sửa đổi cốt lõi các quy định của Luật Phá sản theo hướng quy định phải đủ rõ ràng, khả thi, tạo cơ chế động lực thúc đẩy các chủ thể liên quan thực hiện thủ tục phá sản cũng như giám sát quá trình này.

Các biện pháp nâng cao nhận thức của cộng đồng về ý nghĩa và tầm quan trọng của các thủ tục giải thể, phá sản.

2. Cải cách hệ thống pháp luật về bộ máy nhà nước theo hướng hỗ trợ thị trường

Về tinh gọn bộ máy nhà nước

Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị đã được triển khai mạnh mẽ trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, để thực sự hiệu quả và bền vững, việc tinh gọn bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị trong thời gian sắp tới cần bám sát vào hai nguyên tắc bổ trợ lẫn nhau như sau:

 Thứ nhất, xác định những chức năng mà nhà nước buộc phải cung cấp cho thị trường; những chức năng mà nếu thiếu, thị trường sẽ không thể vận hành hoặc vận hành thiếu hiệu quả.

Thứ hai, rà soát và loại bỏ những công việc, chức năng mà nhà nước không nhất thiết phải làm; chuyển, tạo lập và khuyến khích thị trường và xã hội dân sự đảm nhiệm những công việc, chức năng này thay cho nhà nước. Cụ thể hơn,  bộ máy tổ chức Nhà nước cần sắp xếp lại theo hướng Nhà nước điều hành và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng luật pháp thay vì trực tiếp tham gia. Tức là, Nhà nước không nên đóng vai trò của người cung cấp hàng hóa và dịch vụ, mà chỉ nên đóng vai trò quản trị (governance) để thị trường thực hiện vai trò đó. Ở những nơi mà thị trường không thực hiện được chức năng đó (ví dụ cung cấp dịch vụ công) thì Nhà nước cũng không nên tham gia cung cấp trực tiếp các loại hình hàng hóa và dịch vụ đó, mà nên tham gia với tư cách là người mua các hàng hóa và dịch vụ đó để phân phối lại cho người dân.

Nhà nước cần tập trung nhiều hơn vào cung ứng dịch vụ công ích cơ bản và cải thiện môi trường kinh doanh nhằm giảm chi phí hoạt động cho các doanh nghiệp. Bộ máy Chính phủ và chính quyền các cấp trước mắt cần tiếp tục thực hiện chương trình cải cách thủ tục hành chính, giảm các chi phí tuân thủ, và số hóa các thủ tục hành chính. Trong trung và dài hạn, Nhà nước cần phải nâng cao chất lượng làm luật và chính sách, củng cố sự nghiêm minh của pháp luật để đảm bảo tính thượng tôn pháp luật trong hoạt động kinh tế.

Cần thể chế hóa các quy định về ổn định vĩ mô như tỷ lệ lạm phát, thâm hụt ngân sách, nợ công để tạo ra các quy tắc ổn định, lâu dài, giúp thị trường dễ dàng tiên đoán. Tập trung cải cách hệ thống thuế sao cho thực sự đơn giản, đồng nhất.

Về kiểm soát quyền lực nhà nước

Cần nâng cao vị thế, vai trò của nhánh tư pháp. Cụ thể, Việt Nam sớm trao chức năng bảo hiến cho hệ thống tòa án; cần trao cho các thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh trở lên quyền thẩm định xem một văn bản quy phạm pháp luật hoặc một quy định nào đó của các cấp chính quyền có vi phạm hiến pháp hay các bộ luật do Quốc Hội phê chuẩn hay không. Việc này sẽ khiến cho các cơ quan chính quyền cần cẩn trọng khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, cần trao cho hội thẩm nhân dân nhiều quyền hơn trong xét xử; mở rộng phạm vi tham gia hội thẩm nhân dân cho đa phần công dân để nâng cao ý thức công lý cho người dân.

Nhà nước cần khuyến khích sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự để tăng cường giám sát việc tuân thủ luật pháp của cơ quan nhà nước, đồng thời tăng tính phản biện trong việc ban hành các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, và nhờ đó tăng cường mức độ tham gia của người dân vào các hoạt động này, cũng như tính đồng thuận của xã hội đối với các chính sách mà Nhà nước ban hành.

 Xây dựng các hệ thống giám sát độc lập và minh bạch, cho phép kiểm tra định kỳ hiệu quả của việc thực thi pháp luật, đồng thời tạo điều kiện cho sự tham gia của các bên liên quan (doanh nghiệp, người dân, tổ chức xã hội dân sự). Các biện pháp như tổ chức các cuộc họp công khai, sử dụng phần mềm giám sát và đánh giá hoạt động của các cơ quan là những bước đi cụ thể nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình được nâng cao. Khi thông tin được công khai đầy đủ, các cơ quan nhà nước buộc phải thực hiện nhiệm vụ một cách minh bạch và có trách nhiệm.

Đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin để giám sát việc thực thi pháp luật, từ đó phát hiện sớm các vi phạm và xử lý kịp thời, đảm bảo quy trình xử lý minh bạch và công bằng. Việc số hoá quy trình và dữ liệu cho phép công chúng và các bên liên quan dễ dàng tiếp cận thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước. Các nền tảng dữ liệu mở (open data) và hệ thống báo cáo trực tuyến giúp công dân theo dõi, đánh giá và phản hồi một cách nhanh chóng, từ đó tạo áp lực nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan.

Về phân cấp, phân quyền và trao quyền cho cá nhân, khu  vực tư nhân tự do phát triển

Quốc Hội vừa mới phê chuẩn Luẩt tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) (ngày 19/02/2025) theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, bảo đảm phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm". Trong quá trình thực thi Luật, điểm mấu chốt là cần phải tăng quyền thu chi ngân sách địa phương nhiều hơn nữa. Ngoài ra, cần lưu ý đến những “điểm nghẽn” cản trở tính chủ động của các chính quyền địa phương như về tổ chức thiết kế bộ máy và bổ nhiệm nhân sự cũng như việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, quy hoạch, đầu tư công, cung cấp các dịch vụ công.

Đẩy mạnh phân quyền cho các định chế tư hoặc định chế độc lập thực hiện cung ứng các hàng hóa và dịch vụ công ích. Cụ thể, cần đẩy mạnh cổ phần hoá và thoái vốn nhà nước khỏi đa phần các doanh nghiệp nhà nước hiện nay; chuyển sang khu vực tư gần như toàn bộ việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn và cung cấp dịch vụ đánh giá phù hợp; chuyển sang khu vực tư phần lớn việc xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng như cao tốc đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, đường sắt, các công trình văn hoá, thể thao, v.v.; và chuyển phần lớn sang khu vực tư việc cung cấp các dịch vụ tiện ích như nghiên cứu, giáo dục, y tế, điện, nước sạch, vệ sinh, giao thông, viễn thông, văn hoá, điện ảnh, thể thao v.v.; chuyển phần lớn sang khu vực tư việc quản lý quỹ hưu trí, quỹ an sinh xã hội, và hoạt động trợ cấp xã hội; và chuyển một phần sang khu vực tư việc cung ứng hàng hoá và dịch vụ trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng.

Trao quyền mạnh hơn nữa cho cá nhân và khu vực tư nhân tự do sáng tạo và tự chủ trong cuộc sống. Một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy sáng tạo là các cá nhân và tổ chức cần được bảo vệ quyền tự do biểu đạt. Trong bối cảnh Việt Nam đang mong muốn đẩy mạnh tăng trưởng dựa trên phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo các khía cạnh của quyền tự do biểu đạt như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do tiếp cận thông tin, quyền tự do học thuật, quyền tự do nghệ thuật, v.v. cần phải được nêu ra và thể chế hóa.

Nguồn: Trích Phần III, Phạm Hồng Chương và Tô Trung Thành (đồng chủ biên). Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2024: Thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế trong bối cảnh mới. NXB Đại học Kinh tế quốc dân (xem đầy đủ báo cáo tại đây)