![[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 3: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (Phần 1)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25004.1_(1).png)
[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 3: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (Phần 1)
GIỚI TRÍ THỨC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI1
I.
Có một niềm tin sâu đậm phổ biến ở tất cả các nước dân chủ rằng ảnh hưởng của giới trí thức đối với chính trị là không đáng kể. Ở Mĩ, niềm tin này thậm chí còn sâu sắc hơn. Đây là điều không còn gì phải nghi ngờ nếu nói về sức mạnh của những người trí thức trong việc khiến các ý kiến riêng biệt của mình về hiện tại ảnh hưởng đến các quyết định của quần chúng, xét trên khía cạnh làm thay đổi tỉ lệ bầu cử đại chúng về các vấn đề mà họ có quan điểm khác với các quan điểm hiện thời của quần chúng. Tuy nhiên, xét trong những khoảng thời gian dài hơn một chút, thì có lẽ chưa bao giờ những người trí thức có được một ảnh hưởng lớn như họ đang có ngày nay ở chính các nước đó. Họ nắm được quyền lực này bằng việc định hướng dư luận.
Nhìn vào các bằng chứng lịch sử gần đây, có một điều hơi lạ là người ta vẫn chưa thừa nhận tầm ảnh hưởng của thứ quyền lực có tính quyết định này của nhóm những người môi giới trung gian chuyên nghiệp về tư tưởng (the professional secondhand dealers in ideas). Diễn tiến chính trị của Thế giới phương Tây trong một trăm năm qua là một minh họa sáng tỏ nhất. Lúc đầu chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ và chẳng ở đâu là một phong trào của tầng lớp lao động. Nó chẳng hề là một phương thuốc hiển nhiên cho một hiểm họa hiển nhiên ảnh hưởng đến các lợi ích mà tầng lớp ấy đòi hỏi phải giải quyết. Nó là một kiến tạo của các nhà lí luận, bắt nguồn từ các xu hướng nhất định của tư duy trừu tượng mà chỉ giới trí thức mới tỏ tường được sau một khoảng thời gian dài; và nó đòi hỏi những nỗ lực dài hơi của giới trí thức trước khi các tầng lớp lao động bị thuyết phục để chấp nhận nó như là cương lĩnh của họ.
Ở mọi quốc gia đã chuyển sang hướng chủ nghĩa xã hội, trước pha phát triển mà chủ nghĩa xã hội có vai trò quyết định đối với hoạt động chính trị là một giai đoạn nhiều năm trong đó các lí tưởng xã hội chủ nghĩa đã chi phối tư duy của nhóm trí thức hoạt động tích cực hơn. Tại Đức giai đoạn này đã đạt được vào cuối thế kỉ trước; ở Anh và Pháp, vào khoảng thời gian Thế chiến I. Đối với nhà quan sát tình cờ, thì dường như Mĩ đã tiến tới pha này sau Thế chiến II và sức hấp dẫn của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa và chỉ huy đối với giới trí thức Mĩ giờ đây mạnh mẽ như nó đã từng hấp dẫn các đồng nghiệp Đức hay Anh của họ. Kinh nghiệm gợi ý rằng, một khi đã chuyển sang giai đoạn này thì việc các quan điểm do giới trí thức hiện đang nắm giữ trở thành thế lực chi phối hoạt động chính trị chỉ còn là vấn đề thời gian.
Vì thế, đặc điểm của quá trình theo đó các quan điểm của giới trí thức ảnh hưởng đến hoạt động chính trị ngày mai vượt xa khỏi sự quan tâm học thuật đơn thuần. Bất kể chúng ta chỉ muốn tiên đoán hay chỉ muốn thử tác động đến diễn tiến của các sự kiện thì đặc điểm trên là một nhân tố có tầm quan trọng lớn hơn rất nhiều so với thường được hiểu. Cái đối với người quan sát đương thời có vẻ như là cuộc đấu tranh giữa các lợi ích mâu thuẫn nhau thực ra thường là cái đã được quyết định trước từ lâu trong một cuộc đụng chạm giữa các tư tưởng diễn ra trong các nhóm hẹp. Tuy vậy, khá ngược đời là nhìn chung các đảng phái cánh tả một mặt đã nỗ lực nhiều nhất để truyền bá niềm tin rằng sức mạnh về lượng của những lợi ích vật chất đối ngược nhau mới là yếu tố quyết định các vấn đề chính trị, thì mặt khác trong thực tiễn chính những đảng phái này lại thường xuyên hành động và đạt được thành công cứ như thể họ hiểu được vị trí then chốt của giới trí thức. Dù là do có chủ định hay do hoàn cảnh bắt buộc, họ đã luôn nỗ lực hết mình để tranh thủ sự ủng hộ của giới élite (giới tinh hoa) này. Trong khi các đảng phái bảo thủ hơn thì lại hành động, cũng đều đặn nhưng không thành công trên một , điểm ấu trĩ hơn về dân chủ số đông và thường nỗ lực một cách vô vọng để tiếp cận và thuyết phục trực tiếp các cử tri riêng lẻ.
II.
Tuy nhiên, thuật ngữ “trí thức” không truyền đạt ngay tức thì bức tranh trung thực về cái tầng lớp rộng lớn mà chúng ta nhắc đến; và việc chúng ta không có được một thuật ngữ tốt hơn để mô tả cái mà chúng ta gọi là nhóm những người môi giới trung gian về tư tưởng là lí do không hề tầm thường khiến cho người ta hiểu không đúng về quyền lực của họ. Ngay cả các cá nhân dùng từ “trí thức” theo nghĩa miệt thị vẫn có thiên hướng loại bỏ nhiều người rõ ràng thực hiện chức năng đặc trưng đó. Chức năng này chẳng phải là chức năng của nhà tư tưởng khai nguồn (original thinkers), cũng không phải của học giả hay chuyên gia về một lĩnh vực tư duy cụ thể nào. Người trí thức điển hình không phải là một trong hai loại đó: anh ta không cần có tri thức đặc biệt về bất cứ cái gì cụ thể, thậm chí chẳng cần quá thông minh, để thực hiện vai trò của mình với tư cách người môi giới trong việc truyền bá tư tưởng. Cái làm cho anh ta đủ tư cách thực hiện chức năng của mình là anh ta có thể dễ dàng nói và viết trên một dải rộng các chủ đề, và có một vị trí hay các thói quen mà qua đó anh ta đón nhận các tư tưởng mới sớm hơn những người anh ta truyền đạt cho.
Nếu không bắt tay vào liệt kê tất cả các ngành nghề và các hoạt động thuộc về tầng lớp này thì chúng ta thật khó có thể hình dung được nó rộng lớn đến cỡ nào, phạm vi hoạt động của nó liên tục gia tăng ra sao trong xã hội hiện đại, và vì sao tất cả chúng ta đều phụ thuộc vào nó. Tầng lớp này không chỉ bao gồm các nhà báo, nhà giáo, mục sư, giảng viên, những chuyên gia thời sự, nhà bình luận radio, nhà viết tiểu thuyết, người vẽ tranh biếm họa, và các nghệ sĩ - tất cả họ có thể là những bậc thầy về kĩ thuật truyền đạt các tư tưởng nhưng thường là những người nghiệp dư xét ở mức độ liên quan đến thực chất vấn đề mà họ truyền đạt. Tầng lớp này cũng gồm nhiều nhà chuyên môn và người làm kĩ thuật, chẳng hạn các nhà khoa học và các bác sĩ, những người mà thông qua sự tiếp xúc thường xuyên với sách vở trở thành những người truyền tải các tư tưởng mới không thuộc lĩnh vực chuyên môn của họ và những người mà, vì tri thức uyên thâm của họ về các chủ đề riêng của họ, được mọi người lắng nghe với sự kính trọng khi họ bàn về hầu như mọi thứ khác. Ngày nay, người bình thường hiểu biết về về các sự kiện hoặc các tư tưởng hầu như thông qua tầng lớp này; và ngoài các lĩnh vực chuyên môn của mình hầu như tất cả chúng ta, xét trên khía cạnh này, đều là những người bình thường, những người vốn có nhu cầu về thông tin và kiến thức phụ thuộc vào những người biến nhu cầu này thành công việc theo sát dư luận của họ. Chính giới trí thức theo nghĩa này mới là những người quyết định quan điểm và dư luận nào đến với chúng ta, những sự thực nào đủ tầm quan trọng mà chúng ta nên biết, và chúng được trình bày dưới dạng nào và từ góc cạnh nào. Liệu chúng ta có biết được các kết quả nghiên cứu của chuyên gia và của nhà tư tưởng khai nguồn nào đó hay không chủ yếu phụ thuộc vào quyết định của giới trí thức này.
Giới không chuyên có lẽ khó ý thức đầy đủ được về mức độ ảnh hưởng của tầng lớp này; ngay cả danh tiếng đại chúng của các nhà khoa học và các học giả cũng không tránh khỏi việc bị tầng lớp này nhào nặn và chi phối thông qua việc bày tỏ quan điểm về các chủ đề vốn chẳng mấy liên quan đến các ý nghĩa thực sự của những thành tựu khoa học. Và điều rất đáng chú ý với chúng ta là mỗi học giả có lẽ đều có thể nêu ra được nhiều ví dụ từ lĩnh vực của mình về những người đã đạt được danh tiếng đại chúng như thể là các nhà khoa học lớn, nhưng thực sự không xứng đáng bởi họ đạt được điều đó là do bám giữ cái mà giới trí thức coi là quan điểm chính trị “tiến bộ”; nhưng tôi không hề tìm thấy bất kì trường hợp nào kiểu hư danh khoa học như vậy lại được ban cho học giả có thiên hướng bảo thủ. Việc tạo ra danh tiếng kiểu này bởi giới trí thức diễn ra nhiều trong các lĩnh vực nơi những kết quả nghiên cứu chuyên môn không được các nhà chuyên môn khác sử dụng, trong khi lại phụ thuộc nhiều vào quyết định chính trị của công chúng. Quả thực hiếm có minh họa nào tốt hơn cho hiện tượng này bằng thái độ mà những nhà kinh tế học chuyên nghiệp dành cho sự phát triển của các học thuyết như chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa bảo hộ. Có lẽ đa số các nhà kinh tế học, những người có danh tiếng được công nhận bởi các đồng nghiệp trong giới của họ, chưa khi nào lại ưa thích chủ nghĩa xã hội (hay với cả chủ nghĩa bảo hộ). Thậm chí hoàn toàn có thể đúng khi nói rằng không có nhóm các nhà nghiên cứu tương tự nào lại có một tỉ lệ những thành viên của mình cao đến vậy dứt khoát chống chủ nghĩa xã hội (hay chủ nghĩa bảo hộ). Một điều còn có ý nghĩa hơn là, trong thời gian gần đây, người ta có khuynh hướng chọn kinh tế học làm nghề nghiệp của mình không phải xuất phát từ mối quan tâm ban đầu đến những kế hoạch cải cách theo thiên hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không phải là các quan điểm đa số của những chuyên gia mà là các quan điểm của một thiểu số, phần lớn thường có vị trí khá đáng ngờ trong nghề nghiệp của mình, lại được giới trí thức vớ lấy và truyền tụng.
Ảnh hưởng lan tỏa khắp của giới trí thức trong xã hội đương thời còn được củng cố thêm bởi tầm quan trọng ngày càng gia tăng của “tổ chức”. Rất nhiều người tin rằng tổ chức càng mạnh càng giúp cho chuyên gia hay nhà chuyên môn có ảnh hưởng mạnh hơn; nhưng đó có lẽ là một niềm tin sai lầm. Điều này có thể đúng đối với chuyên gia hành chính và chuyên gia tổ chức, nếu có những người như vậy, nhưng gần như chắc chắn là không đúng đối với chuyên gia trong bất cứ lĩnh vực tri thức cụ thể nào. Đúng hơn là điều này làm tăng quyền lực của người mà có kiến thức chung đủ để đánh giá lời phát biểu của chuyên gia và để so sánh đánh giá giữa các chuyên gia từ những lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, điểm quan trọng đối với chúng ta là, một học giả mà trở thành hiệu trưởng trường đại học, một nhà khoa học mà chịu trách nhiệm về một viện hay một quỹ, một học giả mà trở thành một nhà biên tập hay người bảo trợ tích cực của một tổ chức phục vụ một sự nghiệp đặc biệt nào đó, tất cả mau chóng không còn là học giả hay chuyên gia nữa và trở thành trí thức theo định nghĩa của chúng ta ở đây, những người đánh giá tất cả các vấn đề không phải bằng các phẩm tính đặc thù của chúng, mà, theo cách thức đặc trưng của những người trí thức, chỉ dựa theo ánh sáng của các tư tưởng thời thượng chung nhất định. Số lượng các tổ chức như vậy, nơi sản sinh ra những trí thức và làm tăng số lượng và quyền lực của họ, tăng lên mỗi ngày. Hầu như tất cả các “chuyên gia” sở hữu kĩ năng làm cho tri thức liên quan tới chủ đề mà họ xử lí luân chuyển là những trí thức chứ thực chất không phải là các chuyên gia.
Theo nghĩa mà chúng ta sử dụng thuật ngữ, thì giới trí thức thực ra là một hiện tượng khá mới mẻ của lịch sử. Dẫu rằng chẳng ai còn tiếc nuối việc giáo dục đã không còn là một đặc ân dành cho tầng lớp giàu có, thì sự thực rằng tầng lớp giàu có đã không còn là những người được giáo dục tốt nhất nữa, và sự thực rằng đa phần những người có địa vị [trong xã hội] chỉ đơn thuần nhờ giáo dục phổ thông đều không có loại kinh nghiệm về sự vận hành của hệ thống kinh tế vốn được hình thành từ việc quản lí tài sản, và đấy là những điểm đáng lưu ý để hiểu được vai trò của giới trí thức. Giáo sư Schumpeter đã dành một chương chói sáng trong cuốn Capitalism, Socialism, and Democracy [Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, và dân chủ của mình để bàn về một số khía cạnh của vấn đề mà chúng ta đang thảo luận ông đã nhấn mạnh không hẳn thiếu công bằng rằng chính sự thiếu vắng trách nhiệm trực tiếp đối với các công việc thực hành, và hệ quả là sự thiếu vắng kiến thức trực tiếp về chúng, mới là cái để phân biệt người trí thức điển hình với những người khác vốn cũng nắm được quyền lực của lời nói và chữ viết. Tuy vậy, sẽ là đị quá xa ở đây để xem xét kĩ càng hơn sự phát triển của tầng lớp này và một tuyên bố lạ kì được cổ vũ gần đây bởi một trong những nhà lí luận của nó, rằng chỉ người nào có các quan điểm dứt khoát không bị chi phối bởi các lợi ích kinh tế mới là người trí thức. Một trong những điểm quan trọng cần được xem xét đối với một thảo luận kiểu như thế có lẽ là: luật bản quyền đã gây ra một kích thích nhân tạo đối với mức độ gia tăng và lớn mạnh của tầng lớp này như thế nào?2
Chú thích:
(1) "The Intellectuals and Socialism", The University of Chicago Law Reviez, tập 16, cuốn 3, Mùa Xuân 1949. In lại trong F. A. Hayek, Studies in Philosophy, Politics, and Economics, 1967, Routledge & Kegan Paul: London và Henley, tr. 178-194.
(2) Có một câu hỏi khá thú vị đáng để tìm hiểu, đó là khi nào thì một quan điểm phê phán nghiêm túc về lợi ích của luật bản quyền đối với xã hội, hay một nghi vấn về lợi ích công cộng đối với sự tồn tại của một tầng lớp sống bằng việc viết sách, sẽ có cơ hội xuất hiện công khai trong một xã hội nơi các kênh ngôn luận bị kiểm soát vô cùng chặt chẽ bởi những người có đặc lợi đối với tình trạng hiện hành.
Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch.