[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 8: Lịch sử chủ nghĩa tư bản rút gọn
Vặn vẹo để phù hợp với lý thuyết
Karl Marx coi chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn trong tiến trình tất yếu của lịch sử. Cuối cùng, ông nghĩ, do những mâu thuẫn bên trong của nó, chủ nghĩa tư bản sẽ sụp đổ và sẽ bị chủ nghĩa cộng sản thay thế. Phân tích lịch sử của ông ta vẫn còn tạo được ảnh hưởng lên những người theo phái xã hội chủ nghĩa và lý thuyết gia xã hội hiện nay. Kết quả là, phần lớn các cuộc thảo luận mang tính hàn lâm và tri thức về chủ nghĩa tư bản chỉ trình bày bằng những thuật ngữ về lịch sử phát triển của nó, trong khi cuộc thảo luận về chủ nghĩa tư bản đương đại lại chỉ tập trung vào những vấn đề được cho là có thể làm cho nó suy yếu đi.
Do đó, những định kiến như thế đã dẫn đến quan điểm sai lầm về chủ nghĩa tư bản nhằm phục vụ cho mục tiêu của những người chỉ trích nó. Tệ hơn nữa, chính các sự kiện lại thường bị bóp méo để cho phù hợp với lý thuyết. Những cuốn sách lịch sử viết về những thiết chế kinh tế được mô tả là chủ nghĩa tư bản, nhưng trên thực tế chúng rất ít liên quan đến khái niệm thực sự của nó. Hơn nữa, người ta còn lên án chủ nghĩa tư bản vì những vấn đề xã hội mà nó không bao giờ hứa sẽ giải quyết, và những vấn đề kinh tế mà phần lớn là do các chính trị gia gây ra chứ không phải do các doanh nghiệp gây ra.
Thật khó mà viết được lịch sử, hay thậm chí là mô tả, một cái gì đó chưa bao giờ thực sự tồn tại ở dạng thuần khiết. Người ta thường nói như thế nhằm bảo vệ khái niệm chủ nghĩa xã hội thuần khiết, trước những lời chỉ trích về hiệu quả thực tế của nó – lịch sử với các chế độ độc tài, những vụ thanh trừng, diệt chủng, những sai lầm mang tính thảm họa về sinh thái, nạn đói, tăng trưởng kinh tế thấp đến mức thảm hại và thiếu hụt triền miên. Nhưng, những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản ít cảm thấy xấu hổ trước những biểu hiện trên thực tế của nó. Họ thừa nhận những vấn đề của nó, nhưng cũng chỉ ra rằng lịch sử của nó được thể hiện bằng sự gia tăng nhanh chóng và lan rộng của cải, dân chủ, tự do cá nhân và hòa bình. Vì vậy, ngay cả khi chưa bao giờ có chủ nghĩa tư bản thuần khiết, thì việc khám phá lịch sử của những xã hội đã áp dụng ít nhất một phiên bản nào đó những nguyên tắc của nó vẫn là bài học đáng giá.
Buôn bán dưới sự chỉ đạo của nhà nước
Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX được đặc trưng bởi chủ nghĩa dân tộc về kinh tế; những ông vua cũng như các vị bộ trưởng có tham vọng xây dựng các quốc gia hùng mạnh về kinh tế. Họ cho rằng nước mình bán cho nước khác càng nhiều thì càng tốt và mua của nước khác càng ít thì càng tốt, đấy là để tăng thu nhập của chính họ và tích lũy càng nhiều của cải - bằng vàng và bạc – thì càng tốt. Họ tin rằng trao đổi chỉ làm lợi cho người bán, vì người bán là người nhận được tiền. Vàng và bạc đổ vào kho tiền của quốc gia là nguồn gốc và thước đo sự thịnh vượng và quyền lực của quốc gia đó.
Do đó, chính sách ngoại thương và nội thương ở trong nước mang tính bảo hộ khá cao. Những người sản xuất cho thị trường xuất khẩu được nhận những khoản trợ cấp khá lớn; hàng nhập khẩu thì phải chịu thuế cao và những trở ngại khác. Các nước, ví du Anh quốc, cấm các thuộc địa buôn bán với bất kỳ nước nào khác, vì sợ rằng của cải của họ chảy sang cho các đối thủ như Pháp, Tây Ban Nha hay Hà Lan. Chiến tranh, cướp bóc của cải của các nước khác được coi là biện pháp hợp pháp nhằm làm gia tăng của cải của quốc gia. Ở trong nước, các thị trấn dựng lên những rào cản tương tự nhằm chống lại những người sản xuất và thợ thủ công của các thị trấn khác, trong khi các hiệp hội thương mại - phường hội - quy định chặt chẽ ngành nghề của mình nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Các hiệp hội thậm chí còn kiến nghị với nhà vua, đòi cấm các thiết bị tiết kiệm sức lao động có thể đe dọa sinh kế của các thành viên của mình, và thưởng cho những bạn bè của mình bằng cách cấp cho họ độc quyền đối với các sản phẩm thiết yếu như tinh bột và muối.
Đây là chủ nghĩa trọng lợi thương (mercantilism)- hệ thống được thiết kế vì lợi ích của người sản xuất chứ không phải vì lợi ích của người tiêu dùng. Nó thường được coi là chủ nghĩa tư bản sơ khai, vì các doanh nghiệp được thành lập, vốn, sản xuất, thị trường và thương mại đều đang trong quá trình phát triển. Nhưng trong hầu hết các khía cạnh khác, nó khác xa ý tưởng về chủ nghĩa tư bản. Nó nằm trong vòng vây của các biện pháp kiểm soát và thuế khóa mà nhà cầm quyền sử dụng nhằm lèo lái hoạt động kinh tế của quốc gia. Đến lượt mình, những biện pháp kiểm soát lại dựa vào vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước - được sử dụng cho mục đích này. Nó hợp pháp hóa chủ nghĩa thân hữu, trộm cắp và bạo lực. Chủ nghĩa tư bản chỉ tồn tại ở những nơi được gọi là khu vực tự do, ở bên ngoài các thị trấn, nơi các bang hội và chính quyền dân sự không vươn tới, và là những nơi mà thương mại tự do, đổi mới sáng tạo và những ý tưởng mới có thể xuất hiện.
Adam Smith mổ xẻ hệ thống trọng lợi thương trong tác phẩm Của cải của các quốc gia. Ông chỉ ra rằng, trao đổi tự nguyện làm lợi cho cả người mua và người bán: nếu không, họ sẽ không tham gia trao đổi. Người bán có thể nhận được vàng và bạc, nhưng người mua nhận được hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ đánh giá cao hơn số tiền mà họ phải trả. Thương mại không phải là hiện tượng mà chúng ta phải chống lại: buôn bán càng nhiều thì càng tạo ra nhiều giá trị và càng có nhiều của cải được đưa tới cho người dân của tất cả các nước. Cạnh tranh cởi mở thúc đẩy đổi mới sáng tạo và làm gia tăng giá trị của đồng tiền. Và chuyên môn hóa xuất hiện là do có vốn và thị trường, nó làm cho năng suất lao động gia tăng mạnh mẽ, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo. Tuy nhiên, Smith cảnh báo rằng tất cả những hiện tượng này đều có thể bị quyền lực nhà nước bóp méo, đặc biệt là khi quyền lực đó được sử dụng nhân danh cho những người thân cận và nhằm bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất có vị thế.
Do đó, chủ nghĩa trọng lợi thương, với những biện pháp kiểm soát, trợ cấp, thuế khóa, chiến tranh và những ý tưởng sơ khai về thương mại và giá trị, chắc chắn không phải là “hệ thống tự do tự nhiên” mà ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa tư bản. Nhưng luận cứ của Adam Smith đã thắng thế. Đến những năm 1860, những biện pháp kiểm soát của chủ nghĩa trọng lợi thương đã được thay thế bằng thuế khóa thấp hơn và ít quy định hơn. Kết quả là một giai đoạn thương mại tự do đầy ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất mà nước Anh từng đạt được.
Cuộc Cách mạng công nghiệp
Khi nghĩ về chủ nghĩa tư bản, hầu hết mọi người có lẽ đang nghĩ về các nhà máy và thành phố công nghiệp của cuộc Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, và về bức tranh nghiệt ngã, màu xám mà những người cầm bút như Charles Dickens (1812–70), và Marx đã vẽ ra.
Chắc chắn là, nền kinh tế giai đoạn này gần với ý tưởng về chủ nghĩa tư bản hơn là chủ nghĩa trọng lợi thương. Đó là nền kinh tế tương đối tự do và thuế khóa thấp, nhiều phát minh giúp chuyển hóa ngành nông nghiệp và chế tạo, công nghệ dùng sức nước và hơi nước biến các nhà máy kéo sợi và dệt vải ở Anh và bông ở Mỹ thành quần áo rẻ và bền, chất lượng cao để xuất khẩu sang các nước khác.
Tuy nhiên, miêu tả của những người Marxist và những người ủng hộ Dicken đã làm lu mờ bản chất và ảnh hưởng thực sự của những diễn biến đáng kinh ngạc này. Những người chỉ trích coi Luật Hàng Rào, cuối thế kỉ XVIII – cho phép các điền chủ rào đất của mình - là nguồn gốc của Cách mạng Công nghiệp. Họ lập luận rằng, những người nông dân bị đuổi khỏi các vùng nông thôn và phải đi tới các thị trấn đầy nghiệt ngã, rồi bị các chủ nhà máy bóc lột với giá nhân công rẻ mạt.
Tuy nhiên, đây chỉ là bức biếm họa. Việc thiết lập hàng rào diễn khá chậm và không dễ dàng: mỗi hàng rào đều cần được Nghị viện chấp thuận và phải xem xét các ý kiến phản đối. Lý do chính để người ta di cư từ nông thôn ra thành thị là tiền lương ở các đô thị công nghiệp cao hơn và tăng nhanh hơn hẳn so với nông thôn. Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp, sức nước và hơi nước, chuyên môn hóa và thương mại quốc tế đã làm gia tăng đáng kể năng suất lao động và song song với nó là gia tăng thu nhập của người lao động.
Đây không phải là câu chuyện cổ tích về những người bị buộc phải sống trong cảnh nghèo đói ở đô thị. Đến năm 1820, thu nhập trung bình của tất cả các nhóm người ở Anh đều tăng khá nhanh – trong đó có cả những người nghèo nhất. Công việc tại nhà máy cũng mang lại cho người ta thu nhập đáng tin cậy hơn hẳn thu nhập mà người có thể kỳ vọng khi làm công việc theo thời vụ trên đất nông nghiệp, với những vụ thu hoạch không lấy gì làm chắc chắn. Mặc dù số giờ làm việc trong nhà máy có thể dài - đấy là theo tiêu chuẩn của chúng ta hiện nay - nhưng cũng không dài hơn số giờ làm việc trên đồng ruộng, trong khi công việc trong nhà máy nhàn hơn hẳn và tránh được thời tiết khắc nghiệt. Ở các thị trấn, cũng có các cửa hàng và nhà vệ sinh, và có nhiều cơ hội tham gia đời sống xã hội, tham gia hoạt động văn hóa và học tập. Nhà ở tuy chật chội, đặc biệt là khi ngày càng có nhiều trẻ em sống sót và các gia đình ngày càng đông đúc; nhưng những ngôi nhà ở thành thị khô hơn, ấm hơn, sạch sẽ hơn, vệ sinh hơn và thông gió tốt hơn so với những ngôi nhà lụp xụp của người lao động ở nông thôn. Giới trí thức khá giả ở đô thị cảm thấy choáng váng trước cảnh bần hàn của người nghèo ở đô thị - nhưng ít người có kiến thức về hoàn cảnh nghèo khó ở nông thôn, buộc người ta phải dứt áo ra đi.
Chính của cải mà các thị trấn tự tạo ra đã đẩy nhanh hơn nữa việc cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc - được củng cố bằng các đạo luật mới về lao động trẻ em, giờ làm việc, tiền công và tiêu chuẩn nhà ở; đây là việc bất khả thi trong trong thời đại nông nghiệp chỉ đủ sống sót. Tiền công còn có giá trị gia tăng hơn nữa, nếu tính cả việc giá cả giảm mạnh, chất lượng quần áo cũng như nhiều sản phẩm khác do người lao động ở thành thị sản xuất ra.
Kinh tế quốc doanh
Tuy nhiên, từ khoảng những năm 1880, môi trường kinh tế tương đối tự do - từng giúp mở rộng sản xuất trong các đô thị - chịu sức ép ngày càng mạnh của giới trí thức. Những thành công trong vật lý học làm cho người ta ngày càng tin rằng có thể kiểm soát đời sống kinh tế và xã hội theo lối duy lý và khoa học. Các cộng đồng đô thị tạo điều kiện cho người lao động tập hợp và tổ chức lại về mặt chính trị, họ yêu cầu có các quy định chặt chẽ hơn về tiền công và điều kiện làm việc. Căng thẳng chính trị lan tràn khắp châu Âu và các chính sách bảo hộ, gần như mang tư tưởng trọng lợi thương, lại xuất hiện. Thương mại và buôn bán ngày càng được quy định chặt chẽ hơn, và đến đầu thế kỷ XX, đã có những lời kêu gọi chính phủ can thiệp vào hoạt động của các dịch vụ thiết yếu, ví dụ như đường sắt, hoặc thậm chí quản lý toàn bộ hoạt động của các ngành công nghiệp.
Vào những năm 1930, sau cuộc Đại suy thoái, nhiều nước quyết định quốc hữu hóa mạnh mẽ hơn nữa. Một làn sóng mới các nhà kinh tế học thúc giục các chính phủ tăng chi tiêu, với hy vọng kích hoạt quá trình phục hồi kinh tế, và bằng cách đó “điều chỉnh” nền kinh tế bằng các chính sách thuế khóa, tín dụng và tiền tệ. Đến những năm 1960, hầu như tất cả các nước gọi là tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới đã trở thành nền kinh tế hỗn hợp, với các doanh nghiệp tư nhân và quốc doanh tồn tại song song với nhau, những quy định về công ty, việc làm và thị trường, “lập kế hoạch mang tính định hướng” của chính quyền, chủ nghĩa bảo hộ, các rào cản thương mại và sự quản lý của chính phủ đối với nền kinh tế - khó mà nói là đúng với các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng nền kinh hỗn hợp tạo ra nhiều vấn đề của chính nó. Người ta không hiểu được những ảnh hưởng to lớn do các chính sách của chính phủ gây ra. Người ta cho rằng các khoản chi tiêu của chính phủ sẽ thúc đẩy nền kinh tế, nhưng trên thực tế, lại thúc đẩy những đợt tăng giá bất thường và thực sự gây tác động phá hoại nền kinh tế. Các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh lúc nào cũng được tiền thuế do dân chúng đóng góp chống lưng, trở thành cực kì thiếu hiệu quả và kém cỏi trong dịch vụ khách hàng. Những người hoạch định chính sách đơn giản là không thể thu thập đầy đủ và xử lý tất cả thông tin mà họ cần để có thể vận hành nền kinh tế quá phức tạp này. Chính sách kinh tế mà người ta cho là hợp lý đã bị chính trị hóa và bị các nhóm lợi ích tranh giành. Tranh chấp trong lĩnh vực lao động gia tăng. Chủ nghĩa thân hữu đã bóp méo tất cả hoạt động sản xuất.
Tai họa của chủ nghĩa thân hữu
Chủ nghĩa thân hữu có lẽ là hình thức giữ thế thượng phong trong nền kinh tế hiện nay. Nhiều người gọi nó là chủ nghĩa tư bản thân hữu nhưng, gọi là chủ nghĩa xã hội thân hữu thì đúng hơn. Đó là thế giới hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa tư bản, theo nghĩa dám nghĩ dám làm, đổi mới, năng suất, thị trường tự do và cạnh tranh, tất cả đều được thúc đẩy bởi nhu cầu của người tiêu dùng. Thay vào đó là các công ty với tham vọng nắm độc quyền, họ dùng ảnh hưởng chính trị để ngăn chặn chủ nghĩa tư bản thực sự: đây là liên minh giữa doanh nghiệp và chính phủ - có thể giả vờ (và thậm chí chính họ cũng tin như thế) đứng về phía người tiêu dùng - nhưng thực ra không phải như vậy.
Với sự phình lên của các chính phủ trong suốt thế kỷ vừa qua và việc chính phủ thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, người ta có thể bòn rút được từ chính phủ rất nhiều ưu đãi về mặt thương mại. Chính phủ có ban phát các khoản trợ cấp và giảm thuế, tăng hoặc giảm thuế xuất nhập khẩu và các rào cản thương mại, ban cho đất đai, tiền bạc hoặc địa vị độc quyền, buộc các doanh nghiệp mới phải xin giấy phép kinh doanh, hoặc tạo ra các quy định và thang lương mà chỉ có các doanh nghiệp có vị thế mới đủ sức chịu đựng. Chính phủ có thể dung thứ cho sự thông đồng giữa các công ty, hoặc thậm chí yêu cầu họ tập hợp lại với nhau trong các diễn đàn nhằm ấn định giá cả và sản lượng: đây là một loại cartel do nhà nước bảo trợ. Và nhân danh ngăn chặn khủng hoảng hoặc bảo đảm việc làm, người ta dễ dàng thuyết phục các chính phủ cứu trợ các doanh nghiệp quản lý kém cỏi, những doanh nghiệp không thể cạnh tranh về giá hoặc chất lượng với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, hoặc đơn giản là người tiêu dùng không có nhu cầu mua sản phẩm của họ nữa.
Vì vậy, các ngân hàng, hãng hàng không, công ty xây dựng, nhà sản xuất, nhà cung cấp năng lượng, công ty điện thoại, công ty truyền thông, công ty dược phẩm, nhà sản xuất ô tô, siêu thị, chủ đồn điền, kỹ sư turbin gió, công ty xe buýt và xe lửa, công ty nhập khẩu và nhiều công ty khác – mặc dù trên danh nghĩa các công ty tư nhân – dựa vào chính phủ để được ưu đãi, trợ cấp, giảm thuế, giấy phép và các quy định bóp nghẹt cạnh tranh.
Ngay cả khi mục đích ban đầu của tất cả những việc này là cao cả - thúc đẩy ổn định kinh tế, bảo vệ công ăn việc làm, cải thiện dịch vụ công cộng, bảo vệ môi trường, v.v. - thì những ảnh hưởng của những khoản ban phát này của chính phủ là rất xấu. Nó lôi kéo các doanh nghiệp vào lĩnh vực chính trị. Nó khuyến khích cái mà các nhà kinh tế học gọi là tìm kiếm tô lợi (rent seeking) - vận động hành lang để có được đặc quyền, đảm bảo có được những khoản lợi nhuận dễ dàng, rút ra từ công quỹ hoặc từ các quy định làm giảm cạnh tranh. Chính phủ càng to thì vận động hành lang càng mang lại nhiều lợi ích tiềm tàng hơn - và thực ra, đấy là lợi ích do tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu mang lại. Càng nuông chiếu lợi ích của các nhà sản xuất đang hiện hữu, thì các công ty đang tồn tại càng to lên, và chính phủ càng phải dựa vào họ trong việc định hình các quy định trong tương lai; và các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng cũng như các công nghệ mới càng bị cho ra rìa. Khi hoạt động vận động hành lang của các nhà sản xuất - những người có lợi ích tập trung hơn và có nhiều tiền hơn cũng như kỹ năng chuyên nghiệp hơn để vận động hành lang hiệu quả hơn so với người tiêu dùng cá nhân – thì họ cũng nắm luôn độc quyền tranh luận chính trị và lợi ích đa dạng của người tiêu dùng thường bị lờ đi.
Chủ nghĩa thân hữu lan tràn khắp thế giới, nhưng đặc biệt phổ biến ở Đông Nam Á, nơi thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản thân hữu” hình thành, nơi mà các chính phủ thường hỗ trợ các công ty “đứng đầu” trong mỗi lĩnh vực, bảo vệ họ bằng các quy định và thuế xuất nhập khẩu. Đối với chính phủ của những nước này, lợi ích thu được của việc có một vài công ty lớn và mạnh có thể cạnh tranh trên trường quốc tế là hiển nhiên. Nhưng họ quên mất khoản chi phí cơ hội: thực tế là vốn, nhân sự và các nguồn lực khác mà các công ty lớn sử dụng có thể được sử dụng hiệu quả hơn ở những chỗ khác. Thật vậy, do thực tế là các chính phủ không thể phát hiện được mọi cơ hội mà vô số cá nhân có thể phát hiện được, nên gần như chắc chắn là những nguồn lực có thể bị lãng phí.
Đặc quyền thương mại chỉ có thể trở thành khả thi ở những nơi mà các chính phủ sẵn sàng sử dụng lực lượng cưỡng chế. Nó không thể xảy ra trong xã hội tự do, nơi mà các chính phủ chỉ sử dụng vũ lực nhằm bảo vệ các quyền cá nhân. Nhưng thực tế là chủ nghĩa thân hữu quá phổ biến, nó cho thấy có nhiều quốc gia trên thế giới hiện chỉ còn là tự do trên danh nghĩa mà thôi.
Hình thành chủ nghĩa tư bản cho tương lai
Thật khó mô tả bất kỳ hệ thống kinh tế nào trong những hệ thống này là chủ nghĩa tư bản theo bất kỳ nghĩa chân chính nào, mặc dù tất nhiên là nhiều người đã cố gắng - sử dụng các mánh khóe - tạo ra gánh nặng cho lý tưởng của chủ nghĩa tư bản với nhiều khiếm khuyết thực tế, nhưng đấy không phải là những khiếm khuyết mà chỉ chủ nghĩa tư bản mới có và cũng không phải là bản chất của nó. Thách thức đối với những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản là tách biệt ý tưởng cốt lõi khỏi những tam sao thất bản và nhầm lẫn, đồng thời tiếp tục tạo ra trên thực tế những cấu trúc kinh tế gần với tầm nhìn của họ về chủ nghĩa tư bản, với tất cả các lợi ích kinh tế, xã hội và đạo đức của nó.
Tất nhiên, điều đó có nghĩa là giải thể các doanh nghiệp quốc doanh và cắt giảm thuế, cắt giảm trợ cấp, thuế xuất nhập khẩu và các quy định, những thứ cản trở cạnh tranh và tiếp sức cho chủ nghĩa thân hữu. Có nghĩa là giới hạn nhà nước trong việc bảo vệ các quyền cá nhân và quyền tự do hoạt động kinh tế của người dân, chứ không được vi phạm những quyền này. Có nghĩa là tách nhà nước ra khỏi đời sống kinh tế.
Đây không phải là chương trình nghị sự dễ dàng trong một chế độ dân chủ không giới hạn, nơi ngày càng có nhiều quyết định được đưa ra thông qua quy trình chính trị, trao cho đa số cái mà người ta coi là quyền áp đặt tất cả các chính sách kinh tế lên những nhóm người thiểu số. Đó không phải là dân chủ mà là chủ nghĩa dân túy, được quyền lực mang tính cưỡng chế của nhà nước hỗ trợ, và đó là lý do vì sao những người cha lập quốc Mỹ đặt ra những giới hạn nghiêm ngặt như thế lên chính phủ nước mình và phân chia quyền lực giữa các thiết chế khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả ở Mỹ, quyền lực cũng đã trở thành tập trung và nằm trong tay một số người.
Nếu hiểu đúng, thì đây là những điều kiện hoàn hảo dành cho chủ nghĩa thân hữu, và là những điều kiện rất khó khăn đối với chủ nghĩa tư bản. Muốn thay thế chủ nghĩa thân hữu - với tất cả những sai lầm của nó - bằng chủ nghĩa tư bản - với tất cả những lợi ích của nó – thì dường như cần phải suy nghĩ lại một cách có hệ thống về những hạn chế và giới hạn của tiến trình chính trị.
Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.
