[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 5)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 5)

KINH TẾ CHÍNH TRỊ VÀ CẤM ĐOÁN

Xu hướng chung là một hành động can thiệp của chính phủ dẫn đến nhiều hành động can thiệp sau đó đã được James M. Buchanan và Gordon Tullock (1965) mô hình hóa. Gần đây hơn, Bruce L. Benson (1984) đã chỉ ra rằng mỗi thay đổi trong quyền tài sản lại thiết lập một tập hợp những khả năng tìm kiếm đặc quyền (và bảo hộ). Tiến trình can thiệp “lũy tiến” này được mô tả trong Hình 3. Tại đây, can thiệp gia tăng vì ba lí do. Các cơ quan quản lí hành chính quan liêu không thể hoạt động hiệu quả để đạt được những kết quả chính sách mà mọi người mong muốn, và thất bại ban đầu sẽ dẫn đến đòi hỏi phải cung cấp thêm nguồn lực và quyền hạn cho bộ máy hành chính để họ có thể thực hiện sứ mệnh của mình (1). Thị trường bị bóp nghẹt và vì vậy mà không thể giải quyết được những vấn đề xã hội (2). Hoạt động của bộ máy hành chính quan liêu tạo ra nhiều méo mó và những những vấn đề mới trên thị trường, “đòi hỏi” (trong đầu óc của các quan chức và những người lập chính sách) phải can thiệp nhiều hơn nữa (3).

Mối liên hệ giữa nhu cầu trong nhận thức về phản ứng chính sách và can thiệp nhiều hơn (4) xuất phát từ những động cơ về thể chế của các quan chức, chính trị gia và cử tri. Các quan tìm cách mở rộng ảnh hưởng và quyền lực của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ của mình tốt hơn. Xu hướng mở rộng các cơ quan quản lí hành chính quan liêu không phụ thuộc vào việc các quan chức là những người ích kỷ hay có tinh thần vì cộng đồng. Trong bất cứ trường hợp nào, các quan chức đều không hiểu được rằng “thất bại” là do sự thiếu hiệu quả của chính họ. Họ cũng ít khi lên án bộ máy quản lí hành chính quan liêu của mình vì đã để cho quá trình khám phá vô ích tạo ra những vấn đề đó. Các chính trị gia, những người chịu trách nhiệm cao nhất quản lý các cơ hành chính, được lợi từ chính các cơ quan này, và họ hiếm khi thừa nhận thất bại hoặc tham gia vào quá trình dỡ bỏ tốn kém và chưa biết rõ kết quả một cơ quan hành chính. Các cử tri sẽ dễ dàng nhận thức được những lợi ích từ việc áp dụng các biện pháp hành chính, nhưng họ sẽ không thể thấy được toàn bộ phí tổn của chúng. Các cơ quan quản lí hành chính quan liêu thường định giá đầu ra của họ thấp hơn giá thành (thường là bằng không), tức là cử tri được lợi còn người đóng thuế thì chịu thiệt. Một trong những kết quả của chính sách định giá này là đường lối dài dòng của chính phủ và quan niệm cho rằng cần phải có chính phủ to lớn hơn. Trong trường hợp cấm đoán thì không bao giờ có đủ các nhân viên thực thi để có đủ sức chặn đứng được các vấn đề.

Quá trình can thiệp ngày càng gia tăng đó chỉ có thể được đảo ngược (5) khi cử tri phát hiện được cả nguyên nhân thực sự của vấn đề (can thiệp của nhà nước) lẫn giải pháp thay thế (thị trường). Do những chi phí cho sự chuyển đổi và tái tổ chức trên diện rộng mà những người đại diện được bầu không chắc ít có khả năng sẽ dỡ bỏ biện pháp cấm đoán trừ phi họ được công chúng ủng hộ. Trong trường hợp hủy bỏ biện pháp can thiệp thì phải nhanh chóng và dứt khoát giải tán bộ máy quản lí hành chính quan liêu, nếu không, họ có thể sẽ “phát hiện” ra lí do mới cho sự tồn tại của mình.

Chủ nghĩa can thiệp tăng dần là chủ đề thường được nói tới trong sách báo về kinh tế chính trị. Đây là một chủ đề trong đó chính sách cấm đoán thường được trích dẫn như là một minh họa mang tính phê phán. F. A. Hayek, Ludwig von Mises và James M. Buchanan đã chỉ ra những ảnh hưởng nguy hại của việc sử dụng các thể chế chính trị nhằm can thiệp vào hoạt động kinh tế và tự do cá nhân.
Tác phẩm kinh điển Road to Serfdom (Đường về nô lệ) của Hayek ([1944] 1977) là một lời cảnh báo rằng việc chính phủ kế hoạch hóa nền kinh tế là mối đe dọa đối với những quyền tự do căn bản và rằng chấp nhận kế hoạch hóa sẽ dẫn đến chủ nghĩa xã hội và chế độ độc tài toàn trị. Ông lưu ý: “Sự cải tiến một cách chậm chạp của chính sách tự do làm cho thái độ bất mãn ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó cần phải kể đến sự bất bình chính đáng đối với những kẻ sử dụng ngôn từ tự do nhằm che đậy các đặc quyền đặc lợi đi ngược lại lợi ích của xã hội. Tất cả những cái đó, cộng thêm với đòi hỏi của xã hội ngày càng gia tăng đã dẫn đến kết quả là đến cuối thế kỉ XIX niềm tin vào các nguyên tắc chủ yếu của chủ nghĩa tự do đã suy giảm nghiêm trọng”. Cấm đoán chỉ là một phần của thái độ chấp nhận kế hoạch hóa của người dân, “vì người ta đã thuyết phục họ rằng nó sẽ tạo ra nhiều thịnh vượng hơn” (61). Theo Hayek, việc chấp nhận kế hoạch hóa và chủ nghĩa can thiệp là sự phá hoại chế độ pháp quyền, điều kiện căn bản để một nền kinh tế hoạt động tốt. Hayek (72-87 và những tác phẩm khác) đã viết rằng chính chế độ pháp quyền là cơ sở duy trì những quyền tự do khác. Ông trích dẫn Max Eastman, một người từng theo phái xã hội chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa kế hoạch hóa kinh tế và “những quyền tự do dân chủ”: “Chính ông (Marx), khi nhìn lại quá khứ, đã thông báo cho chúng ta biết rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng với thị trường tự do đã tạo ra tiền đề cho sự phát triển tất cả các quyền tự do dân chủ của chúng ta. Nhưng nhìn về phía trước, ông lại không bao giờ tự hỏi rằng nếu đúng là như thế thì sau khi bãi bỏ thị trường tự do các quyền tự do này có mất đi hay không”.

Trong khi thảo luận về các kết quả kinh tế của kế hoạch hóa, chủ nghĩa can thiệp và sự “tương thuộc khăng khít của tất cả các hiện tượng kinh tế”, Hayek nêu ra vấn đề mà các nhà lập kế hoạch đều không thể đưa ra câu trả lời đơn giản: làm thế nào có thể kiểm soát hay hạn chế kế hoạch hóa? Ông lưu ý rằng các kết quả kế hoạch hóa kinh tế “không thể giới hạn việc kế hoạch hoá trong một lĩnh vực riêng biệt nào đó và khi việc giới hạn các quan hệ thị trường đạt đến điểm tới hạn nào đó thì người lập kế hoạch sẽ buộc phải mở rộng mãi việc kiểm soát cho đến khi nó bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực”.

Một nhà kinh tế học nữa là Ludwig von Mises cũng nhấn mạnh khía cạnh quan trọng của những biện pháp can thiệp. Để đối phó với chủ nghĩa can thiệp, Mises nhấn mạnh những hậu quả chính trị quan trọng của sự can thiệp trực tiếp vào tiêu thụ khi nói về việc cấm các loại ma túy:

Thuốc phiện và morphine chắc chắn là nguy hiểm vì chúng là chất gây nghiện. Nhưng một khi thừa nhận nguyên tắc là chính phủ có nhiệm vụ bảo vệ cá nhân nhằm chống lại sự ngu ngốc của chính anh ta thì không còn lời phản đối nghiêm túc nào có thể được đưa ra nhằm chống lại sự xâm phạm của chính phủ nữa. Có thể nhìn vào một thí dụ thực tế là ủng hộ việc cấm rượu và thuốc lá. Và tại sao lại giới hạn sự quan phòng đầy nhân từ của chính phủ vào việc bảo vệ mỗi cơ thể của cá nhân mà thôi? Chả lẽ những thương tổn mà một người có thể gây ra cho trí óc và tâm hồn của mình lại không lớn hơn so với bất kì thương tổn nào trên cơ thể hay sao? Tại sao không ngăn cản người ta đọc những cuốn sách xấu xa và xem những vở kịch bậy bạ, tại sao không ngăn cản người ta xem những bức tranh hay bức tượng xấu và nghe những bản nhạc dở tệ? Những điều ác do những hệ tư tưởng xấu gây ra chắc chắn là còn nguy hiểm, cho cả cá nhân lẫn toàn xã hội, hơn là những hành động nguy hiểm do ma tuý gây ra.

Những sự sợ hãi này không chỉ đơn thuần là những bóng ma mà người ta tưởng tượng ra nhằm dọa những người có đầu óc giáo điều sống ẩn dật. Thực tế là chưa hề có bất cứ một chính quyền gia trưởng nào, trong thời cổ đại cũng như hiện đại, từng lưỡng lự trước việc quản lí đầu óc, niềm tin và quan điểm của các thần dân của nó. Nếu người ta thủ tiêu quyền tự do của con người để quyết định việc tiêu thụ của anh ta thì người ta sẽ thủ tiêu tất cả các quyền tự do. Những người ủng hộ ngây thơ cho sự can thiệp của chính phủ vào việc tiêu thụ đã tự lừa dối bản thân khi họ lờ đi những điều mà họ gọi một cách khinh miệt là khía cạnh triết học của vấn đề. Họ đã vô tình ủng hộ cho việc kiểm duyệt, dò xét, bất dung tôn giáo, và đàn áp những người bất đồng chính kiến (Mises [1949], 1977, 733-34)

Vì vậy mà hậu quả của cấm đoán bao gồm những tác động trực tiếp của nó cũng như những hậu quả ngoài ý muốn, đồng thời là xu hướng can thiệp nhằm gây ảnh hưởng đến triết lí, qui mô, và phạm vi hoạt động của chính phủ.

Khía cạnh này của môn kinh tế chính trị học đã được James M. Buchanan, người đoạt giải Nobel gần đây, chú ý. James M. Buchanan chỉ ra rằng các cá nhân có thể hạn chế hành vi của những người khác với chi phí thấp bằng cách sử dụng phương pháp dân chủ. Nhưng phương pháp giải quyết xung đột này có thể làm người ta lầm lẫn và nguy hiểm. “Các thể chế theo nguyên tắc đa số của nền chính trị dân chủ hiện đại là vũ khí cực kì nguy hiểm, đấy là nói khi người ta kêu gọi sử dụng chúng nhằm làm giảm những vụ xung đột trong những khu vực có sự tương thuộc về mặt xã hội. Chúng là vũ khí nguy hiểm chính vì các thể chế dân chủ và mở rộng cửa một cách bình đẳng cho tất cả công dân... [và] sở thích mà người ta thích áp đặt thì sẽ được áp đặt” (Buchanan 1986, 339). Buchanan tiếp tục thảo luận khía cạnh kinh tế học của những vấn đề gây chia rẽ, trong đó có việc cấm đoán những hoạt động khác nhau. Ông nhận xét rằng trong khi nhóm đa số có thể được lợi từ những biện pháp cấm đoán thì nhóm thiểu số có thể bị thiệt hại đáng kể. Sử dụng những hệ thống dân chủ làm phương pháp xử lí xung đột cho phép tách các vấn đề ra và tự do tiêu thụ bị xóa sổ. Một khi cái hộp Pandora đã mở ra thì không có gì trong hệ thống hoàn toàn dân chủ có thể ngăn chặn được quá trình này. Buchanan tuyên bố: “Những người sử dụng phương pháp chính trị nhằm áp đặt sở thích của họ lên hành vi của những người khác cần cảnh giác với những mối đe dọa đối với quyền tự do của chính mình, ví dụ, một số hành vi của họ cũng có thể bị coi là phải được kiểm soát và điều chỉnh. Nghĩ rằng chẳng mất gì khi hạn chế quyền tự do của người khác thông qua quá trình chính trị là hoàn toàn sai lầm. Không thể hạn chế quyền tự do của một số người mà không hạn chế quyền tự do của tất cả mọi người” (340).

Trước khi nói về những kết quả cụ thể của cấm đoán, cần lưu ý rằng hàm ý của nó nhiều hơn hẳn so với trong phân tích kinh tế. Đấy không chỉ là sự suy đoán hay khả năng để những hậu quả chính trị vĩ mô được mô tả bên trên xuất hiện cùng với những biện pháp cấm đoán và những hậu quả này nghiêm trọng hơn hẳn những hậu quả xuất hiện trong thị trường bị cấm đoán.

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường