![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 1)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.26_(1).jpeg)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 1)
Trong xã hội Mĩ, người lạm dụng heroin bị coi là những người gây ra tội ác với những người khác. Quả thật, những người lạm dụng heroin thường phạm tội hình sự và thậm chí thường xuyên hơn là trước đây từng ghi nhận.
- B. D. Johnson và cộng sự, Taking Care of Business: The Economics of Crime by Heroin Abusers
Tham nhũng là hậu quả thường thấy của chủ nghĩa can thiệp. Phân tích về chủ nghĩa can thiệp sẽ không đầy đủ nếu không nói đến hiện tượng tham nhũng.
- Ludwig von Mises, Human Action
Cột số công trình nghiên cứu đã chỉ ra mối liên giữa việc tiêu thụ một số loại thuốc, như rượu và ma túy và hành vi tội phạm. Mối quan hệ này là lí do chính cho việc áp dụng một số biện pháp cấm đoán, trong đó có Luật cấm rượu toàn quốc, cấm cocaine ở một số bang miền Nam, và cấm cần sa vào năm 1937.
Một động lực khác cho việc ban hành những biện pháp cấm đoán là giảm tệ nạn tham nhũng đến từ cả công chức lẫn tiến trình dân chủ. Người dân đã bán lá phiếu của họ để lấy tiền hoặc ma túy, và ngành công nghiệp rượu tìm cách gây ảnh hưởng đến cuộc các cuộc bầu cử và chính sách công. Các chính trị gia cũng có thể dính vào những vụ tham nhũng và tống tiền vì rượu và ma túy, và sử dụng ma túy có thể có ảnh hưởng tiêu cực đối với những hành động của các lãnh đạo chính trị. Vì những lí do này mà người ta đã tiến hành những biện pháp cấm đoán, coi đó là phương tiện nhằm duy trì tính chính trực của nền dân chủ và của chính phủ.
Tuy nhiên, nhìn chung, những biện pháp cấm đoán tạo ra thêm tội phạm và tham nhũng, chứ không làm giảm được những tệ nạn này. Thị trường chợ đen do cấm đoán tạo ra là những vụ trao đổi trái pháp luật đã được thiết chế hóa. Những vụ trao đổi trái pháp luật hoặc những tội ác không có nạn nhân thường kéo theo những hành vi bạo lực thuộc loại tội phạm hình sự. Cấm đoán cũng thường liên quan với các tổ chức tội phạm và các băng đảng. Bạo lực được sử dụng trong thị trường chợ đen và các tổ chức tội phạm nhằm buộc người ta thực hiện hợp đồng, giữ vững thị phần và bảo vệ lãnh địa bán hàng. Tội phạm và bạo lực xảy ra trong giai đoạn cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 là lí do chính cho việc hủy bỏ Luật cấm rượu (Kyvig 1979, 123, 167). Những hành động tội phạm của người nghiện ma túy nhưng không phải do ma túy gây ra quan đến ảnh hưởng về mặt kinh tế của các luật cấm, được Erickson (1969) và các tác giả khác coi là giá phải trả chính cho việc cấm đoán heroin.
Nạn tham nhũng của quan chức thực thi pháp luật và các quan chức khác cũng là biểu hiện quen thuộc của những thị trường bị cấm đoán. Kinh nghiệm chỉ ra rằng cấm đoán làm người ta thoái hóa nhanh nhất. Nạn tham nhũng của Cục Phòng chống rượu được coi là cản trở lớn trong việc thực thi một cách hiệu quả Luật cấm rượu và cũng đã được viện dẫn là lí do để bãi bỏ Luật cấm rượu. Quan trọng nhất là, nạn tham nhũng lan ra bên ngoài bộ máy thực thi những biện pháp cấm đoán và lan cả chính phủ. Kinh nghiệm gần đây đã chỉ ra rằng những biện pháp cấm đoán bao trùm lên nhiều loại ma túy trên toàn cầu là lực lượng tham nhũng chính trong chính phủ nhiều quốc gia, ví dụ như Colombia và Mexico.
Do đó, bằng chứng lịch sử dường như mâu thuẫn với hoặc chí ít là đưa ra bằng chứng mâu thuẫn với những lời tuyên bố của những người ủng hộ cấm đoán. Muốn cho cấm đoán đạt được những mục tiêu của mình là giảm tội phạm và tham nhũng thì phải có một số điều kiện. Thứ nhất, việc tiêu thụ sản phẩm phải gây ra những hành động tội phạm và tham nhũng. Thứ hai, cấm đoán phải giảm một cách đáng kể việc tiêu thụ sản phẩm này mà không làm gia tăng tiêu thụ các sản phẩm khác, tức là những hành động cũng gây ra tội phạm và tham nhũng. Thứ ba, cấm đoán không được làm tăng một cách đáng kể những hình thức tội phạm và tham nhũng khác.
Sử dụng một số loại ma túy có thể được coi là tác nhân làm gia tăng tội phạm. Mối liên quan này cùng với các yếu tố khác nhau có thể giúp chúng ta mô tả tội phạm và thống kê tội phạm, nhưng cho đến nay đấy vẫn chưa phải là căn cứ vững chắc cho chính sách công. Trước hết, sử dụng hoặc lạm dụng một số loại ma túy không phải là một nguyên nhân cần cho tội phạm, vì tội phạm và tham nhũng có thể xảy ra mà không cần ma túy. Thứ hai, ma túy cũng không phải là nguyên nhân đủ cho tội phạm vì sử dụng ma túy tự nó không có khả năng làm cho người ta phạm tội. Do đó, sử dụng ma túy không phải là điều kiện cần và cũng không phải là điều kiện đủ của các hoạt động tội phạm mà những biện pháp cấm đoán tìm cách loại bỏ hoặc làm giảm đi.
Nếu cấm đoán không làm giảm một số hoạt động tội phạm, đồng thời lại gây ra những hoạt động tội phạm khác thì cần phải phân tích thêm. Nhưng có một số yếu tố chống lại sự tin cậy trong phân tích chi phí-lợi ích. Trước hết, tôi tin rằng chính sách công nên dựa vào cách tiếp cận tổng quát đối với các biện pháp cấm đoán; độ co giãn đặc trưng được nghiên cứu bằng phân tích chi phí-lợi ích về bản chất là không ổn định và có thể thay đổi theo thời gian. Thứ hai, dữ liệu về hoạt động tội phạm là không đáng tin và trong một số trường hợp không sẵn có. Thứ ba, trong một số trường hợp, những loại hoạt động tội phạm mà việc cấm đoán hi vọng sẽ làm giảm khác với những hành vi phạm tội do cấm đoán gây ra. Thứ tư, chúng ta có thể nghĩ rằng các loại tội phạm và tham nhũng truyền thống sẽ giảm, khi cấm đoán mở ra cơ hội mới và chuyển những nguồn lực thực thi pháp luật sang hướng khác.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition