Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 2)

Hai phong trào giải phóng chính trị vĩ đại của thế kỉ 19 là chủ nghĩa cá nhân nhân bản và chủ nghĩa dân tộc lãng mạn, như mọi cuốn sách lịch sử đều cho chúng ta biết như vậy. Dù những khác biệt của họ có thế nào đi nữa - và những khác biệt ấy thật sâu sắc đủ để dẫn đến phân liệt gay gắt và va chạm tột bậc của hai lí tưởng đó - họ có điều này là chung: hai phong trào đều tin rằng những vấn đề của cả cá nhân lẫn xã hội đều có thể được giải quyết, chỉ cần các sức mạnh trí tuệ và đức hạnh được làm cho lấn át tình trạng ngu dốt và xấu xa độc ác. Hai phong trào đều chống lại những người bi quan và những người theo thuyết định mệnh, cả tôn giáo lẫn thế tục, tiếng nói của những người này trước đây còn vang lên nghe thấy khá rõ, bắt đầu nghe nhỏ đi chỉ vào cuối thế kỉ; hai phong trào tin tưởng rằng, nếu mọi vấn đề được hiểu rõ ràng thì chúng đều có thể được con người giải quyết với các nguồn lực đạo đức và trí tuệ mà con người vốn sẵn có. Chắc chắn là các trường phái tư tưởng khác nhau đưa ra những lời giải đáp khác nhau cho những vấn đề luôn thay đổi ấy; các nhà công lợi chủ nghĩa nói một thứ, và các nhà lãng mạn tân-phong kiến - những người dân chủ bảo thủ Anh (Tory), những người xã hội chủ nghĩa Kitô giáo, những người theo chủ nghĩa Đại Đức, những người đòi giữ truyền thống Slave ở Nga (Slavophils) - lại nói thứ khác. Những người thuyết giảng tự do tin vào sức mạnh không giới hạn của giáo dục và sức mạnh của đạo đức lí tính để vượt qua nỗi thống khổ kinh tế và tình trạng bất bình đẳng. Ngược lại, những người xã hội chủ nghĩa tin rằng, nếu không có một thay đổi triệt để trong phân phối và kiểm soát các nguồn lực kinh tế, thì không biến đổi nào trong tâm trí của một bộ phận cá nhân lại có thể là đầy đủ hay thậm chí [biến đổi] còn không thể xảy ra được. Những người bảo thủ và những người xã hội chủ nghĩa tin vào sức mạnh và ảnh hưởng của các định chế và xem chúng là biện pháp bảo vệ an toàn chống lại hỗn loạn, bất công và tàn ác gây nên bởi chủ nghĩa cá nhân không có kiểm soát; những người vô chính phủ, những người cấp tiến và những người thuyết giảng tự do nhìn các định chế như chúng vốn là thế, với nỗi nghi ngờ rằng chúng mang tính cản trở cho việc thực hiện xã hội tự do (và theo quan điểm của số đông nhất trong họ là xã hội duy lí), [họ cho rằng] ý chí của con người có thể hình dung và xây dựng được xã hội ấy, nếu giả sử như không có những cặn bã chưa loại bỏ được của các hủ tục cổ xưa (hay vô lí) mà những kẻ đang cầm quyền trong xã hội - dù là các cá nhân hay các bộ máy - dựa vào rất nhiều, và rất nhiều thứ trong số những cặn bã đó quả thực là những biểu hiện điển hình.

Các luận cứ về mức độ tương đối của nghĩa vụ cá nhân đối với xã hội và ngược lại [của xã hội đối với cá nhân], luôn tràn đầy không khí. Chắc chẳng cần thiết phải kể lại những câu hỏi quen thuộc ấy - chúng là chủ đề chính để thảo luận trong các học viện mang tính bảo thủ nhiều hơn của tri thức phương Tây - để hiểu được rằng, dù cho những bất đồng về những câu trả lời thích đáng cho chúng có khác biệt nhiều đến đâu đi nữa, thì bản thân những câu hỏi đều là chung cho những người theo khuynh hướng tự do và bảo thủ. Tất nhiên ngay cả vào thời ấy vẫn có những nhà phi lí tính bị cô lập - Stirner, Kierkegaard, và theo một lối nhất định là Carlyle11 - thế nhưng chủ yếu là tất cả các đảng phái tranh cãi nhau gay gắt, thậm chí cả nhưng người giáo phái Calvin và những người Thiên Chúa giáo cực đoan, đều chấp nhận khái niệm về con người trong những mức độ khác nhau thiên về một trong hai kiểu mẫu được lí tưởng hóa. Hoặc con người là một tạo vật tự do và bản chất tự nhiên tốt, nhưng bị vây hãm và bị làm cho thất bại12 bởi những định chế lỗi thời hay đồi bại hay hiểm ác, những định chế giả mạo thành những vị cứu tinh, những người bảo trợ và những kho chứa các truyền thống thiêng liêng; hoặc con người là một thực thể bị giới hạn, tự do nhưng không bao giờ hoàn toàn [tự do], tốt ở mức độ nào đó nhưng không bao giờ hoàn hảo, vì vậy mà không có khả năng tự cứu rỗi mình bằng các nỗ lực độc lập của chính mình; cho nên phải tìm kiếm cứu rỗi ở trong một khuôn khổ rộng lớn - các nhà nước, các giáo hội, các đoàn thể. Vì chỉ có những lâu đài vĩ đại ấy mới xúc tiến được tình đoàn kết, tình trạng an toàn và đủ sức mạnh để cưỡng lại được những niềm vui nông cạn và những tự do đầy nguy hiểm có sức tự hủy tột cùng, được rao bán bởi những kẻ cá nhân chủ nghĩa vô lương tâm hoặc tự lừa dối mình, là những kẻ nhân danh một giáo điều trí tuệ không đổ máu nào đó, hay một niềm phấn khởi cao quý vì một lí tưởng chẳng liên hệ gì với đời sống con ngườỉ, xem thường hay phá hủy kết cấu phong phú của đời sống xã hội chứa đầy những kho báu từ quá khứ - những kẻ cầm đầu mù quáng của bọn người mù quáng cướp đoạt những tài nguyên quý báu nhất của họ, đưa họ vào những hiểm họa của một cuộc sống cô đơn, nghèo nàn,xấu xa, cục súc và ngắn ngủi”13. Vẫn còn ít nhất một tiền đề chung cho những người tranh cãi, ấy là niềm tin rằng những vấn đề là hiện thực, đòi hỏi phải có những con người được đào tạo đặc biệt và có trí tuệ để đề xuất chúng một cách thích đáng, và phải có những con người thấu hiểu phi thường các sự kiện, có sức mạnh ý chí và khả năng tư duy hữu hiệu, để tìm ra những lời giải đúng đắn rồi áp dụng cho những vấn đề ấy.

Hai dòng chảy vĩ đại ấy cuối cùng kết thúc trong những hình thức bị thổi phồng và thực sự đã bị biến dạng thành chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa phát xít - cái thứ nhất là người thừa kế phản trắc của chủ nghĩa quốc tế tự do ở thế kỉ trước đó, cái thứ hai là đỉnh điểm và sự phá sản của chủ nghĩa yêu nước huyền bí khiến cho các phong trào dân tộc chủ nghĩa một thời có được sinh khí. Tất cả các phong trào đều có nguồn gốc, những người mở đường, những khởi đầu không thể cảm nhận thấy: cũng không phải thế kỉ 20 dường như bị phân cách với thế kỉ 19 bởi cuộc bùng nổ mang tính phổ quát đến thế như cuộc Cách mạng Pháp mà ngay vào thời đại hiện nay vẫn là cảnh tượng vĩ đại nhất trong những cảnh tượng lịch sử. Dù sao cũng là lầm tưởng khi nhìn chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa toàn trị chủ yếu như những biểu lộ không thể thỏa hiệp và nhiều bạo lực hơn của một cuộc khủng hoảng trước đó, là đỉnh điểm của một cuộc đấu tranh có thể thấy rõ đầy đủ từ trước thật lâu rồi. Những khác biệt giữa các phong trào chính trị của thế kỉ 20 và thế kỉ 19 rất sắc nét, và chúng bật dậy từ những sự kiện mà toàn bộ sức mạnh của chúng chưa được nhận thức thích đáng cho đến khi thế kỉ của chúng ta đã tiến triển. Vì rằng có một rào cản phân cách rõ ràng giữa quá khứ cùng những thứ đã hoàn tất, với những thứ đặc trưng nhất thuộc về thời nay. Việc biết rõ cái rào cản ấy không được che mắt chúng ta nhìn thấy tính mới mẻ tương đối của nó. Một trong những yếu tố của cách nhìn mới mẻ, ấy là ý niệm về những ảnh hưởng vô thức và phi lí, như những ảnh hưởng vượt trội hơn các sức mạnh của lí trí; một ý niệm khác nữa là những lời giải đáp cho các vấn đề hiện hữu không phải ở trong các lời giải duy lí, mà là ở trong việc tháo bỏ bản thân các vấn đề bằng những phương tiện khác biệt với tư tưởng và luận cứ. Tác động qua lại giữa truyền thống xưa cũ, nhìn lịch sử như chiến trường giữa các lực lượng dễ dàng được nhận diện của ánh sáng và bóng tối, của lí trí và tình trạng ngu dân, của tiến bộ và phản động, hay một chọn lựa khác là giữa thuật thông linh và chủ nghĩa kinh nghiệm, trực giác và phương pháp khoa học, chủ nghĩa hội đoàn và chủ nghĩa cá nhân - xung đột của trật tự này với những yếu tố mới mẻ ở một phía khác, là những yếu tố đối lập một cách bạo lực với tâm lí học nhân bản của nền văn minh tư sản. Xung đột này chính là lịch sử của thờiđại ngày nay ở tầm vóc rộng lớn.

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng