Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 1)

Bất cứ ai mong muốn một cuộc sống an bình thì đã làm một chuyện tệ hại là sinh ra vào thế kỉ 20. - L. Trotsky5

I

Các sử gia về ý tưởng, dù họ có cảm thấy cần phải tỉ mỉ đến đâu, cũng không tránh khỏi nhận thấy các tư liệu của họ ở dạng một khuôn mẫu nào đó. Nói vậy không nhất thiết là phải đồng tình với bất cứ hình thức giáo điều nào của Hegel về vai trò nổi trội của các quy luật và các nguyên tắc siêu hình trong lịch sử - một quan điểm đang có ảnh hưởng gia tăng vào thời đại ngày nay - theo giáo điều ấy thì có một cách giải thích đơn nhất nào đó về trật tự và các thuộc tính của các cá nhân, các sự vật và các biến cố. Thông thường điều này bao gồm việc biện hộ cho một phạm trù hay nguyên lí cơ bản nào đó được khẳng định là tác động như một chỉ dẫn không bao giờ sai lầm, cả trong quá khứ lẫn tương lai, như một thấu kính thần kì phát hiện ra những định luật lịch sử “nội tại” lan tỏa khắp nơi không thể lay chuyển được, nó vô hình đối với mắt nhìn trần tục chỉ biết ghi nhận lại các biến cố, nhưng khi hiểu rõ thì có khả năng đem lại cho sử gia một ý nghĩa duy nhất vững chắc - vững chắc không chỉ về những gì thực sự đã xảy ra, mà còn về lí do tại sao chúng lại không thể khác được, cung cấp một tri thức an toàn mà một nhà nghiên cứu kinh nghiệm luận sẽ không bao giờ có thể hi vọng đạt được, với cấu trúc không an toàn của anh ta về bằng chứng được gom nhặt đầy công phu, với những phép gần đúng có tính ướm thử cùng trở ngại vĩnh viễn bị nhầm lẫn và bị khẳng định lại.6

Khái niệm về “các định luật” kiểu này bị lên án một cách xác đáng như là một loại hoang tưởng siêu hình học; thế nhưng khái niệm ngược hẳn lại về các sự kiện trần trụi - các sự kiện không là gì khác hơn mà chỉ là sự kiện thôi, các sự kiện cứng nhắc, không thể tránh khỏi, không bị làm nhơ bẩn bởi việc diễn giải hay sắp xếp trong các khuôn mẫu nhân tạo - [những khái niệm như thế] cũng có tính chất huyền hoặc tương đương. Thấu hiểu được, rồi đối chiếu, rồi phân loại, rồi sắp xếp, nhìn rõ trong các khuôn mẫu ít nhiều phức tạp, không phải là một loại tư duy đặc biệt, mà chính là bản thân tư duy. Chúng ta lên án các sử gia về việc thổi phồng, xuyên tạc, thiếu hiểu biết, thiên kiến hay tách rời khỏi các sự kiện, không phải vì họ đã lọc lựa, so sánh và đặt chúng vào trong một vãn cảnh và trật tự; điều này ít nhất cũng một phần là lựa chọn của riêng họ, một phần là được quy định bởi hoàn cảnh các tài liệu của họ, bởi môi trường xã hội hay bởi tính cách hay mục đích của họ. Chúng ta lên án họ chỉ khi mà kết quả lệch quá xa, khác biệt quá nhiều với những chuẩn mực kiểm chứng và diễn giải thuộc về thời gian, địa điểm và xã hội của chính họ. Những chuẩn mực ấy, rồi các phương pháp và các phạm trù, là những thứ thuộc cách nhìn duy lí bình thường của một thời kì và nền văn hóa nhất định, trong trường hợp tốt nhất chúng là một hình thức sắc nét, được đào tạo ở trình độ cao của cách nhìn ấy, đó là cách nhìn chính thức thừa nhận tất cả các kĩ xảo khoa học liên quan có thể sử dụng, nhưng tự thân nó lại không phải là một trong những kĩ xảo ấy. Tất cả những phê phán chống lại một tác gia này hay tác gia kia vì sự thái quá của thiên kiến hay sức tưởng tượng, hoặc ý nghĩa quá yếu của bằng chứng, hay thấu hiểu quá hạn hẹp những mối liên quan giữa các biến cố, đều không dựa trên một tiêu chuẩn tuyệt đối nào đó của chân lí, của “thực tại” nghiêm ngặt, của lòng trung thành cứng nhắc đối với một phương pháp lí tưởng xác định không đổi nhằm phát hiện “một cách khoa học” quá khứ như nó thực sự là thế7, tương phản với các lí thuyết đơn thuần về chuyện này, vì rằng phân tích đến cùng thì chẳng có ý nghĩa nào trong ý kiến về việc phê phán “khách quan” với ý nghĩa không phụ thuộc thời gian ấy. Những phê phán thường dựa nhiều hơn vào những khái niệm tinh tế nhất của tính chính xác, rồi tính khách quan và “tính trung thành với các sự kiện” thật tỉ mỉ, mà một xã hội nhất định vào một thời kì nhất định đã có được trong phạm vi chủ đề được xem xét.

Khi cuộc cách mạng lãng mạn vĩ đại trong việc viết lịch sử chuyển trọng tâm từ việc nhấn mạnh đến các thành tựu của các cá nhân sang nhấn mạnh vào sự phát triển cũng như ảnh hưởng của các định chế được quan niệm trong dạng thức có rất ít tính cá nhân, thì mức độ của “tính trung thành với các sự kiện” không phải vì thế mà tự động thay đổi. Kiểu cách mới mẻ của lịch sử - việc tường thuật lại tình trạng phát triển của luật pháp công cộng và riêng tư, ví dụ như vậy, hay của chính thể và văn chương, hay của các tập quán xã hội trong suốt một thời kì nhất định - không nhất thiết phải chính xác hay “khách quan” ít hơn hoặc nhiều hơn so với những tường thuật trước đây về các hành động hay số phận của Alcibiades hay Marcus Aurelius hay Calvin hay Louis XIV. Thucydides hay Tacitus8 hay Voltaire không phải là chủ quan hay mơ hồ hay kì lạ theo ý nghĩa mà Ranke hay Savigny hay Michelet9 lại không phải như vậy. Tân lịch sử chỉ là được viêt từ cái mà nay được gọi là một “góc độ” khác mà thôi. Những loại sự kiện mà môn tân lịch sử dự tính ghi nhận lại là khác biệt, sự nhấn mạnh là khác biệt, một dịch chuyển mối quan tâm đã xuất hiện trong các câu hỏi được đặt ra và hệ lụy là có dịch chuyển trong các phương pháp được sử dụng. Các khái niệm và thuật ngữ phản ánh một quan điểm đã thay đổi về [vấn đề] bằng chứng bao gồm những gì và do đó kết cuộc là về [vấn đề] “các sự kiện” là gì. Khi “những chuyện thêu dệt” của các nhà chép sử biên niên bị phê phán bởi các sử gia “khoa học”, thì ít nhất một phần chê trách hàm ý ở những điều không nhất quán được viện dẫn trong tác phẩm của các tác gia xưa kia so với những thứ được tìm thấy bởi các khoa học được ngưỡng mộ và tin cậy nhất của thời kì muộn hơn; và về phần mình, những thứ được tìm thấy ấy là nhờ vào thay đổi trong những ý niệm đang thịnh hành của các khuôn mẫu về sự phát triển của con người - thay đổi trong các mô hình khiến cho quá khứ được nhận thức trong dạng thức của chúng, các mô hình nghệ thuật, thần học, cơ học, sinh vật học, hay tâm lí học phản ánh trong các lĩnh vực khảo sát, trong các câu hỏi mới mẻ được đặt ra và trong các kiểu cách kĩ xảo được sử dụng, để trả lời cho các câu hỏi được cảm thấy là sẽ lí thú hơn hay quan trọng hơn so với các câu hỏi nay đã trở nên lỗi thời.

Lịch sử của những đổi thay “mô hình” ấy chủ yếu là lịch sử tư tưởng của con người. Các phương pháp nghiên cứu lịch sử theo kiểu “hữu cơ” hay theo chủ nghĩa Marx, chắc chắn đã vay mượn một phần thời trang của chúng từ những khoa học tự nhiên riêng biệt có uy tín, hay từ những kĩ xảo nghệ thuật riêng biệt, mà các phương pháp đó đã được xây dựng theo mô hình của chúng, giả định hay quả thực là thế; ví dụ như mối quan tâm gia tăng đối với cả sinh vật học lẫn âm nhạc có liên quan đến các trước tác lịch sử của thế kỉ 19, nhiều ẩn dụ và tính tương đồng cơ bản được tạo ra từ chúng, cũng giống như mối quan tâm đến vật lí học và toán học liên quan đến triết học và lịch sử của thế kỉ 18; và các phương pháp giải lạm phát cùng cơn giận dữ đầy mỉa mai của các sử gia viết vào sau cuộc Thế chiến I, thật đáng ngờ là chịu ảnh hưởng bởi các kĩ xảo mới mẻ của tâm lí học và xã hội học - và chấp nhận các thuật ngữ của chúng, những kĩ xảo ấy chiếm được sự tin cậy của công chúng vào thời kì đó. Ví dụ như các khái niệm xã hội, kinh tế, chính trị và của những điều giả định trước trong một công trình lịch sử từng được ngưỡng mộ đã có được ưu thế tương đối, soi sáng nhiều hơn cho những đặc trưng thời đại của nó, và chính vì lí do đó mà nó là dấu hiệu đáng tin cậy hơn cho các tiêu chuẩn được thừa nhận, cho các câu hỏi được đặt ra, cho các vai trò tương ứng của “sự kiện” và “diễn giải”; và kết quả là toàn bộ cách nhìn xã hội và chính trị của một thời đại tỏ ra có một ưu thế tương đối so với công trình cùng chủ đề được xem xét từ một lí tưởng nào đó, xác định cứng nhắc theo trí tưởng tượng về một chân lí tuyệt đối, siêu hình học hay khoa học, thường nghiệm hay tiên nghiệm. Sự phát triển các ý tưởng chính trị và các công cụ khái niệm về xã hội và về những đại diện tài giỏi nhất và có khả năng diễn đạt nhất của nó có thể được phán xét một cách tốt nhất, chính là dưới dạng thức của những dịch chuyển như thế trong các phương pháp xử lí quá khứ (hay hiện tại hay tương lai), và trong các thành ngữ và các từ ngữ thời thượng, các mối hoài nghi và các niềm hi vọng, những nỗi e ngại và những cổ vũ mà chúng thể hiện. Chắc chắn rằng các khái niệm mà người ta sử dụng để nói và suy nghĩ có thể là những biểu hiện và hiệu quả của những quá trình khác - xã hội, tâm lí, vật thể - mà việc khám phá những quá trình ấy là nhiệm vụ của khoa học thường nghiệm này hay kia. Thế nhưng điều đó không làm giảm đi tầm quan trọng của chúng và mức độ quan tâm đến chúng đối với những người muốn biết trải nghiệm ý thức của những con người tiêu biểu nhất của một thời đại hay một xã hội bao gồm những gì, dù nguyên nhân của trải nghiệm ấy có là gì và số phận của nó ra sao. Và vì những lí do hiển nhiên về triển vọng, tất nhiên là chúng ta đang ở trong vị thế tốt hơn để xác định điều này cho trường hợp các xã hội trong quá khứ so với các xã hội của chính chúng ta hiện nay. Cách tiếp cận lịch sử là không thể tránh khỏi: quá khứ tác động tới chúng ta thông qua ý nghĩa tương phản và bất tương đồng, chính ý nghĩa ấy sẽ cung cấp cho chúng ta một cơ sở thích đáng duy nhất để cho các nét đặc trưng đặc thù cho trải nghiệm của bản thân chúng ta trong đối chứng với chúng, sẽ nổi bật lên đủ rõ nét để có thể được nhận diện đầy đủ và mô tả.

Một người nghiên cứu các ý tưởng chính trị, ví dụ như thời kì giữa thế kỉ 19, hẳn sẽ thật đui mù nếu sớm hay muộn anh ta không ý thức được những khác biệt sâu sắc ở các ý tưởng và thuật ngữ trong cách nhìn tổng quát về các sự vật - những cách thức mà các yếu tố trải nghiệm được cảm nhận phải có liên hệ giữa yếu tố này và yếu tố kia - những khác biệt phân chia không phải chính cái khoảng cách thời đại xa xôi với thời đại hiện nay. Anh ta sẽ không hiểu được cả thời đại ấy lẫn thời hiện nay, nếu anh ta không nhận thấy tương phản giữa những gì là chung của Comte và Mill, của Mazzini và Michelet, Herzen và Marx ở một bên và của Max Weber và William James, Tawney và Beard, Lytton Strachey và Namier ở phía bên kia10; tính liên tục của truyền thống trí tuệ châu Âu ở tầm gần là một chuỗi những gián đoạn và bất tương đồng, nếu thiếu tính liên tục ấy thì chẳng có hiểu biết lịch sử nào là khả dĩ. Hệ quả là những nhận xét đưa ra bỏ qua một cách tùy tiện các tương đồng để nhấn mạnh những khác biệt đặc thù trong cách nhìn chính trị đặc trưng cho thời đại ngày nay, và trong một mức độ lớn là chỉ riêng cho thời đại ngày nay.

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng