Những luận cương liên bang (Phần 27)
2. Các tu chính án và vấn đề phê chuẩnHAMILTON
Bây giờ chúng ta hay dừng cuộc thảo luận và tự hỏi xem, sau khi đã đọc những bài nghị luận, dự thảo Hiến pháp có đáng để cho dân chúng tán thành hay không? Có đáng coi là cần thiết cho nền an ninh và thịnh vượng chung hay không? Bất cứ người nào rồi cũng phải tự mình trả lời câu hỏi này tùy theo sự hiểu biết, theo lương tâm của mình và sẽ hành động theo trí phán đoán của mình. Đó là một bổn phận mà không ai có thể tránh được. Đó là một bổn phận mà người nào cũng phải làm vì nghĩa vụ của mình đối với xã hội và phải làm một cách thành thật và chu đáo. Nếu một người vì những lý do riêng tư, những quyền lợi riêng tư, vì lòng kiêu hãnh hay vì một dục vọng nhất thời mà có một hành động không chính đáng trong cuộc bầu cử tới mà mình phải tham gia thì người đó sẽ không còn có một lý do chính đáng nào để tự bào chữa đối với lương tâm của mình, đối với quốc gia và đối với hậu thế. Người đó hãy nên nghĩ ngợi thận trọng rằng quyết định của mình không những có ảnh hưởng tới tiểu bang của mình mà sẽ có ảnh hưởng tới sự sống còn của toàn quốc và người đó hãy nên nhớ rằng đa số Hợp chúng quốc châu Mỹ đã chấp thuận dự thảo Hiến pháp mà ngày nay đến lượt chúng ta sắp phải quyết định tán thành hay bác bỏ.
Tôi không giấu diếm là tôi tin tưởng ở những lý lẽ mà tôi đã đưa ra để đồng bào hãy chấp thuận dự thảo Hiến pháp và tôi không nhận thấy một thực lực nào trong những lý lẽ của những người chỉ trích dự thảo Hiến pháp. Tôi cương quyết tin tưởng rằng dự thảo Hiến pháp này là một Hiến pháp hay nhất cho tình trạng chính trị, tập quán và ý kiến của chúng ta, và hay hơn bất cứ một dự thảo Hiến pháp nào khác mà cuộc Cách mạng của chúng ta đã từng thảo ra.
Những người bênh vực dự thảo Hiến pháp cũng đã có lúc từng thú nhận rằng dự thảo Hiến pháp này không phải là một Hiến pháp hoàn toàn và sự nhân nhượng này đã bị những kẻ thù của dự thảo Hiến pháp lợi dụng để chỉ trích. Họ nói: “Tại sao chúng ta lại cần phải chấp thuận một Hiến pháp không hoàn hảo? Tại sao lại không sửa đổi nó đi và làm cho nó hoàn hảo trước khi chúng ta chấp thuận nó?” Quan điểm này mới nghe thì kể cũng có lý nhưng chỉ có thế thôi. Tôi xin nói ngay là những lời nhân nhượng của những người bênh vực dự thảo Hiến pháp, khi thú nhận là dự thảo Hiến pháp không phải là hoàn hảo, đã bị người ta phóng đại quá nhiều. Những người chỉ trích đã dựa trên lời nhân nhượng đó mà nói rằng dự thảo Hiến pháp hoàn toàn sai lầm và nếu không sửa đổi thật nhiều thì các quyền lợi của nhân dân sẽ không được bảo toàn. Thật là xuyên tạc hẳn ý nghĩa lời nói của những người tán thành Hiến pháp. Tôi tin là không có người nào tán thành Hiến pháp lại không sẵn sàng công nhận là Hiến pháp tuy không được hoàn hảo, nhưng dù sao thì cũng là một Hiến pháp hay nhất trong tình trạng hiện tại của quốc gia và hy vọng đã có thể bảo vệ tất cả các quyền tự do mà những người biết lẽ phải đều mong muốn.
Sau nữa, tôi xin trả lời rằng tôi tưởng rằng chúng ta không thận trọng chút nào nếu chúng ta kéo dài tình trạng mỏng manh của quốc gia chúng ta đặt quốc gia vào nhưng cuộc thí nghiệm liên tiếp để đeo đuổi một giấc mộng mơ hồ tức là một biện pháp hoàn toàn. Tôi không bao giờ hy vọng một công trình hoàn hảo nào lại có thể tạo thành bởi những con người mà chúng ta biết là không hoàn hảo. Kết quả của những cuộc thảo luận của những hội đồng do dân chúng bầu cử cố nhiên phải là một kế hoạch bao gồm cả những cái sai lầm và những thành kiến lẫn những cái hay và cái khôn của tất cả con người đã kết hợp trong hội đồng đó. Hiệp ước thắt chặt mười ba tiểu bang khác nhau trong một vòng dây thân ái và liên hiệp chúng cho cả mọi tiểu bang. Có nhiều phải là một thỏa hiệp về những quyền lợi và những khuynh hướng khác nhau. Chẳng lẽ một kết quả hoàn hảo lại có thể xuất phát từ những thành phần khác nhau như vậy hay sao?
Gần đây, tại thành phố này có xuất bản một cuốn sách rất hay, trong đó đưa ra nhiều lý do để chứng tỏ rằng chúng ta không thể nào lại có thể triệu tập một hội nghị mới mà hy vọng có được những kết quả khả quan như Hội nghị Lập hiến vừa qua. Tôi không muốn nhắc lại những lý lẽ trong cuốn sách đó vì tôi tin là cuốn sách đó đã được truyền bá một cách rộng rãi rồi.
Tuy vậy, còn một điều mà chúng ta cần phải xét tới, tức là vấn đề các tu chính án.
Tôi tin tưởng rằng chúng ta có thể sửa đổi Hiến pháp một cách dễ dàng sau khi đã chấp thuận Hiến pháp hơn là trước khi chấp thuận Hiến pháp. Nếu bây giờ mà chúng ta sửa đổi dự thảo Hiến pháp thì dự thảo sẽ trở thành một dự thảo mới và vì vậy sẽ cần có sự phê chuẩn lại của các tiểu bang đã phê chuẩn rồi. Hiến pháp mà muốn được áp dụng trên toàn quốc cần phải có sự phê chuẩn của tất cả 13 tiểu bang. Trái lại, nếu dự thảo Hiến pháp đã được phê chuẩn rồi thì sau đó các tu chính án chỉ cầu có 9 tiểu bang phê chuẩn cũng đủ để được chấp thuận. Như vậy tức là những sự sửa đổi sau này sẽ có hy vọng được chấp thuận dễ dàng hơn, theo tỷ lệ 9 phần 13 mà thôi.
Bất cứ một bản Hiến pháp nào của Hợp chúng quốc cũng phải bao gồm một số điều khoản khác nhau mà 13 tiểu bang sẽ tán thành hay không tùy theo quyền lợi và dư luận của mỗi tiểu bang. Trong sự liên hiệp của nhiều thành phần, các thành phần có thể kết thành các khối khác nhau. Một thành phần có thể đứng vào khối đa số về một vấn đề, nhưng đến vấn đề khác, thành phần đó có thể sẽ đứng vào khối thiểu số. Vì vậy, cần phải có một kế hoạch liên hiệp thích hợp để thỏa mãn ý muốn của từng thành phần và của tất cả các thành phần trong liên hiệp. Nếu chúng ta cứ tăng thêm vấn đề thì sự thỏa mãn sẽ càng khó khăn thêm.
Hiến pháp một khi đã được chấp thuận mà nếu cần phải sửa đổi thì mỗi lần sửa đổi chỉ nêu lên một vấn đề độc nhất mà thôi. Như vậy thì tức là sự thỏa hiệp sẽ dễ dàng vì không cần phải tính toán thiệt điểm này, lợi điểm nọ mà chỉ cần chăm chú vào một điểm chính mà thôi. Sự biểu quyết với một đa số cần thiết sẽ giải quyết vấn đề một cách rõ ràng. Như vậy, mỗi khi đa số 9 hoặc 10 tiểu bang muốn đề nghị một tu chính án, tu chính án đó chắc chắn sẽ được chấp thuận dễ dàng.
Có nhiều người lo ngại là sau này sửa đổi Hiến pháp sẽ gặp nhiều khó khăn bởi vì những người đã được bổ nhiệm vào chính quyền sẽ không muốn mất một phần những quyền lực mà các tu chính án có thể đòi hỏi họ phải trả lại. Tôi cho là nhận xét đó không đúng, bởi vì tôi tin tưởng là những người có trách nhiệm quản trị liên bang 13 tiểu bang phải là những người có tài có đức, có tinh thần phục vụ dân chúng và họ sẽ phải nhận thức được sự cần thiết phải chiều theo ý chí của những người đã bầu cử cho họ. Hơn nữa, một khi chính phủ 9 tiểu bang đã đồng ý kiến về một vấn đề thì các nhà lãnh đạo trong chính phủ liên bang sẽ không còn quyền định đoạt theo ý muốn của họ về vấn đề đó nữa. Theo điều thứ 5 của Hiến pháp, Quốc hội có nhiệm vụ, “khi chính phủ tiểu bang của hai phần ba các tiểu bang (hiện nay tức là chỉ cần có 9 tiểu bang trong số 13 tiểu bang) đề nghị, triệu tập một hội nghị để đề nghị tu chỉnh Hiến pháp và tu chính án đó sẽ có hiệu lực như một phần của Hiến pháp khi tu chính án đó được phê chuẩn bởi quốc hội tiểu bang của ba phần tư các tiểu bang, hay do những hội nghị tiểu bang của ba phần tư các tiểu bang”. Khoản này trong Hiến pháp rất rõ ràng. Quốc hội sẽ “phải triệu tập một hội nghị”. Như vậy tức là Quốc hội liên bang không có quyền tự do làm theo ý muốn của mình được. Như vậy có đúng là sự phản đối của những người chỉ trích hoàn toàn vô căn cứ hay không?
Hơn nữa, nếu chúng ta có thể nghi ngờ là liên kết hai phần ba hoặc ba phần tư các chính phủ tiểu bang để chấp thuận những quyền lợi địa phương là một điều khó khăn. Chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ sự liên kết đó sẽ là một công cuộc khó khăn khi cần phải đề nghị và chấp nhận những tu chính án liên quan tới nền tự do hay nền an ninh của toàn thể nhân dân. Chúng ta có quyền tin tưởng các chính phủ tiểu bang khi cần thiết phải xây dựng những thành trì để ngăn ngừa sự lạm dụng công quyền của chính phủ liên bang.
Sự mong muốn sửa đổi một bản Hiến pháp trước khi bản Hiến pháp đó được phê chuẩn sẽ không còn nữa đối với những người sẵn sàng công nhận sự thực trong những nhận xét vừa thiết thực vừa uyên bác sau đây của một triết gia:
“Điều hành một quốc gia lớn hoặc một xã hội lớn, dù thuộc chính thể quân chủ hoặc cộng hòa cũng vậy, bằng những luật pháp khái quát, là một công việc vô cùng khó khăn, đến nỗi không một người có thiên tài nào, dù thấu triệt tới bực nào lại có thể chỉ dùng lý trí và suy luận mà thành công được, cần phải có sự kết hợp trí phán đoán của nhiều người trong một công việc như vậy. Kinh nghiệm sẽ dìu dắt cố gắng của họ; thời gian sẽ giúp cho công việc của họ mỗi ngày mỗi hoàn thiện, và sự nhận định được các kết quả bất lợi sẽ giúp họ sửa chữa các sai lầm mà dĩ nhiên họ không thể tránh khỏi trong những cuộc thí nghiệm đầu tiên của họ”.
Những nhận xét thâm thúy trên là một bài học ôn hòa cho tất cả những người thành thật yêu nước và cảnh cáo họ chớ nên liều lĩnh làm cho quốc gia có thể lâm vào một tình trạng hỗn độn vô chính phủ, nội chiến, tiểu bang này gây chiến chống tiểu bang nọ, hay lâm vào một chính thể quân phiệt tạo bởi một chính trị gia khéo mị dân đã hứa hão huyền cho nhân dân những điều mà nhân dân hoàn toàn không thể có được nếu không phải là nhờ ở thời gian và kinh nghiệm. Có lẽ tôi vẫn còn nhiều thiếu sót về phương diện chính trị nhưng tôi xin thú thực là tôi không dám yên tâm như những người vẫn cho rằng việc kéo dài tình trạng hiện tại của quốc gia sẽ không có gì là nguy hiểm. Một quốc gia mà không có một chính phủ toàn quốc, theo ý tôi, là một cảnh thật đáng lo. Sự thành lập một Hiến pháp trong một thời buổi thái bình, do sự thỏa thuận tình nguyện của toàn thể một dân tộc, là một kỳ công mà tôi hồi hộp hy vọng được trông thấy thành hiện thực. Chúng ta phải thận trọng đừng để thất bại một công trình gian nan đã được 7 trong số 13 tiểu bang tán thành, và sau khi đã thành công đến đây tại phải quay trở lại bước đầu. Tôi rất lo sợ cho những kết quả tai hại sẽ xảy ra nếu chúng ta xóa bỏ hết để lại bắt đầu một công trình dự thảo mới, bởi vì tôi biết rằng, tại tiểu bang này và những tiểu bang khác, có nhiều cá nhân có quyền thế thù ghét việc thành lập một chính phủ toàn quốc, dù theo bất cứ một chính thể nào cũng vậy.
Nguồn: Trích từ Ralph H.Gabriel (1954). Hamilton, Madison and Jay: On the Constitution. Đại học Yale, Hoa Kỳ. Được dịch và ấn hành bởi Việt Nam Khảo dịch xã (có trụ sở ở 61 Lê Văn Duyệt, Sài gòn) vào các năm 1959 và 1966 ở miền Nam Việt Nam, dưới tên gọi là “Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ”.
