.jpg) 
												Những luận cương liên bang (Phần 23)
VI. NGÀNH TƯ PHÁP
1. Bản tính và quyền lực của ngành tư pháp liên bang (1/2)
HAMILTON
Bây giờ, chúng ta hãy nghiên cứu tới phần dự thảo Hiến pháp nói về ngành tư pháp.
Khi chúng ta vạch rõ những nhược điểm của liên hiệp hiện hữu, chúng ta đã từng nhận thấy tính chất cần thiết và ích lợi của ngành tư pháp liên bang, và vì vậy, bây giờ chúng ta không cần phải nhắc lại tất cả những nhận xét cũ hay thảo luận một cách trừu tượng về những vấn đề liên quan tới ngành này. Ở đây, chúng ta chỉ nên nêu ra những vấn đề liên quan tới sự thành lập và phạm vi của ngành tư pháp mà thôi. Vì vậy, chúng ta chỉ nên hạn chế những nhận xét về hai điểm vừa kể trên.
Việc thành lập ngành tư pháp liên quan tới những điểm sau đây: Thứ nhất, thể thức bổ nhiệm các thẩm phán. Thứ hai, chức vụ của các vị thẩm phán. Thứ ba, sự phân định thẩm quyền tư pháp giữa các tòa án khác nhau và sự liên quan giữa các tòa án đó.
Thứ nhất: Thể thức bổ nhiệm các vị thẩm phán cũng giống như thể thức bổ nhiệm các nhân viên khác trong chính quyền, và vấn đề này đã được thảo luận đầy đủ trong hai bài trước, nếu chúng ta nhắc lại thì cũng chẳng thêm ích lợi gì.
Thứ hai: Về chức vụ của các vị thẩm phán: những điểm có liên quan tới vấn đề này là nhiệm kỳ của các vị thẩm phán, những khoản dự liệu về lương bổng và các phương tiện sinh sống, những thủ tục đề phòng khiến cho các vị thẩm phán phải luôn có một tinh thần trách nhiệm.
Theo dự thảo Hiến pháp do Hội nghị Lập hiến đã thảo ra, tất cả các vị thẩm phán do chính phủ liên bang Hợp chúng quốc bổ nhiệm đều giữ chức vụ vĩnh viễn. Khoản này giống như điều khoản trong Hiến pháp của tất cả các tiểu bang, kể cả tiểu bang New York của chúng ta. Đây là một khoản rất hợp lý, thế mà những người chỉ trích dự thảo Hiến pháp lại cũng từng đã chỉ trích riêng khoản này. Điều đó chứng tỏ rằng họ thật điên cuồng với khả năng xét đoán và trí tưởng lệch lạc.
Dùng một hành vi chính đáng để làm một tiêu chuẩn quy đinh nhiệm kỳ của các vị thẩm phán là một sự tiến bộ rất lớn của khoa chính trị thời cận đại. Trong một chính thể quân chủ, những tiêu chuẩn đó là chướng ngại vật để ngăn cản sự chuyên chế của vua chúa. Trong một chính thể cộng hòa, những tiêu chuẩn đó sẽ là một thanh trì của nghị viện đại diện nhân dân để ngăn cản sự lạm quyền và sự ức hiếp. Hơn nữa, những tiêu chuẩn đó là một phương sách hay nhất của chính phủ để duy trì được sự thi hành luật pháp mang tính cương quyết, cao cả và không thiên vị.
Những người đã nghiên cứu kỹ lưỡng về các ngành quyền đều nhận thấy rằng trong một chính phủ mà các ngành quyền được phân định rõ ràng, ngành tư pháp, do bản chất và nhiệm vụ của nó, luôn là ngành quyền ít nguy hiểm nhất với sự tự do chính trị được ghi trong Hiến pháp nếu so sánh với các ngành quyền khác, bởi vì nó là ngành ít có khả năng nhất trong việc ngăn cản hoặc xâm phạm tới quyền tự do hiến định đó. Ngành hành pháp không những có quyền phân phối các vinh dự mà còn có quyền sử dụng vũ lực. Ngành lập pháp không những kiểm soát tài chính mà còn có quyền quy định các luật lệ chi phối sự sinh hoạt của cá nhân công dân. Ngành tư pháp, trái lại, không có quyền sử dụng võ lực hoặc quyền kiểm soát tài chính, không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội và cũng không có một quyền quyết định tích cực nào cả. Có thể nói rằng, ngành tư pháp chỉ có trí phán đoán, và cần phải dựa vào sự trợ giúp của ngành hành pháp mới có thể thi hành được quyết định mang tính phán đoán của mình.
Nhận xét đó cho thấy ngành tư pháp, nếu so sánh với các ngành quyền khác, là ngành quyền mềm yếu nhất trong ba ngành quyền, rằng ngành tư pháp không thể xâm lăng phạm vi quyền hạn của hai ngành hành pháp và lập pháp, và chúng ta cần phải tìm cách để giúp cho ngành tư pháp có thể tự bảo vệ chống đỡ những sự xâm phạm của hai ngành quyền kia. Không chỉ vậy, nó còn chứng tỏ rằng, tuy trong một vài trường hợp nhất định, ngành tư pháp có thể uy hiếp các cá nhân qua toà án nhưng quyền tự do của cá nhân sẽ không bao giờ bị ngành tư pháp xâm phạm tới được. Cố nhiên là muốn như vậy thì ngành tư pháp cần phải hoàn toàn cách biệt khỏi hai ngành lập pháp và hành pháp, bởi vì tôi cũng đồng ý với Montesquieu rằng “sẽ không thể có tự do được nếu quyền tư pháp không tách biệt khỏi ngành lập pháp và ngành hành pháp”. Cuối cùng, nhận xét đó chứng tỏ rằng các quyền tự do không sợ bị xâm phạm bởi ngành tư pháp nhưng trái lại sẽ lâm nguy nếu ngành tư pháp liên kết cùng một trong hai ngành hành pháp hoặc lập pháp. Nếu có một sự liên kết giữa ngành tư pháp cùng một ngành khác thì ngành tư pháp sẽ phải phụ thuộc vào ngành đó. Trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư pháp có thể duy trì được tính chất độc lập và cương quyết của mình, nhiệm kỳ thường trực của các vị thẩm phán là yếu tố quan trọng nhất, và chúng ta có thể coi yếu tố đó là một thành trì để bảo vệ công lý và an ninh cho công chúng.
Sự độc lập hoàn toàn của các tòa án là một yếu tố cốt yếu cho một Hiến pháp có hạn định. Vậy thế nào là một Hiến pháp có hạn định? Theo tôi, một Hiến pháp có hạn định là một Hiến pháp có chứa đựng một vài khoản rõ ràng để hạn chế quyền lập pháp, thí dụ như ngành lập pháp không có quyền ban hành những đạo luật trưng dụng để trả thù, những đạo luật hồi tốv.v… Về phương diện thực hành, chỉ toà án mới có thể thi hành những khoản hạn chế quyền lập pháp, vì các tòa án có nhiệm vụ tuyên bố những đạo luật mà ý nghĩa trái ngược với tinh thần Hiến pháp là những đạo luật không có hiệu lực. Nếu các tòa án mà không có thẩm quyền đó thì tất cả các quyền tự do và các đặc quyền của công dân sẽ không còn ý nghĩa nữa.
Có những người khi thấy các tòa án có quyền tuyên bố những đạo luật trái ngược với tinh thần Hiến pháp là những đạo luật vô hiệu lực, lại tưởng tượng rằng như vậy thì ngành tư pháp phải ở một cấp cao hơn ngành lập pháp. Họ cho rằng nếu một ngành có thẩm quyền quyết định rằng những quyết định của ngành khác vô hiệu lực thì ngành đó phải ở trên ngành kia. Vì điều này có ảnh hưởng quan trọng trong các Hiến pháp tại Mỹ nên chúng ta cũng nên bàn luận thêm về nó.
Có một nguyên tắc rất rõ ràng là quyền lực ủy nhiệm nếu thi hành trái ngược với nhiệm vụ thì sẽ coi như là vô hiệu lực. Như vậy không một đạo luật nào do ngành lập pháp làm ra mà trái ngược với Hiến pháp lại có thể coi là hợp pháp và có hiệu lực được. Nếu không công nhận nguyên tắc trên thì tức là xác nhận rằng người phụ tá có nhiều quyền lợi hơn người quyền trưởng, rằng người đầy tớ có quyền hơn người chủ, rằng người đại diện dân chúng có nhiều quyền hơn dân chúng, rằng người có ủy quyền lại có quyền làm những điều mà người ủy quyền cấm đoán làm.
Nếu nói rằng nhân viên cơ quan lập pháp cũng là người xét đoán về tính cách hợp hiến của quyền lực của mình thì cần phải hỏi là họ căn bản dựa trên dự liệu nào của Hiến pháp. Chẳng lẽ Hiến pháp nhờ đó mà có nghị viện lập pháp lại cho phép những người đại diện nhân dân được quyền thay thế ý chí của nhân dân bằng ý chí riêng của họ hay sao? Như vậy thì chúng ta nhận thấy là Hiến pháp đã thành lập ra các tòa án để đứng giữa nghị viện lập pháp và nhân dân, để ngăn cản nghị viện lập pháp không vượt qua phạm vi quyền lực mà nghị viện được giao. Tìm hiểu ý nghĩa của các đạo luật chính là nhiệm vụ nằm trong phạm vi quyền lực của các toà án. Nhưng toà án lúc nào cũng phải coi Hiến pháp là văn bản pháp luật căn bản. Như vậy, tòa án lúc nào cũng cần phải định nghĩa rõ ràng ý nghĩa của Hiến pháp và ý nghĩa của từng đạo luật mà nghị viện lập pháp đã làm ra. Trong trường hợp Hiến pháp và một đạo luật có hai ý nghĩa không giống nhau, tòa án cần phải căn bản hướng định nghĩa của mình theo ý nghĩa của Hiến pháp hơn là ý nghĩa của một đạo luật của nghị viện lập pháp, phải trọng ý chí của nhân dân hơn là ý chí của những người đại diện nhân dân.
Kết luận này không có nghĩa là ngành tư pháp ở một cấp cao hơn ngành lập pháp mà nó có nghĩa là ý chí của nhân dân ở một cấp cao hơn cả ngành tư pháp lẫn lập pháp và nếu ý chí của ngành lập pháp mà được cụ thể hóa qua các đạo luật của quốc hội trái ngược với ý chí của nhân dân đã được cụ thể hóa qua bản Hiến pháp, thì các vị thẩm phán sẽ phải dựa trên Hiến pháp chứ không phải trên các đạo luật. Họ phải quyết định theo tinh thần của một văn bản pháp luật căn bản chứ không phải theo một văn bản pháp luật không căn bản.
Có thể tìm thấy rất nhiều thí dụ thông thường về quyền quyết định của các vị thẩm phán khi phải chọn lựa giữa hai văn bản luật trái ngược nhau. Không thiếu những trường hợp có hai đạo luật cùng liên quan tới một vấn đề lại trái ngược nhau, hoặc trong một vài điều khoản hoặc trong toàn thể các khoản, và không đạo luật nào có ghi khoản bãi bỏ đạo luật kia. Trong trường hợp đó, các vị thẩm phán có nhiệm vụ định đoạt ý nghĩa và sự áp dụng của mỗi đạo luật. Nếu có thể dung hòa hai đạo luật đó thì các vị thẩm phán sẽ dung hòa, nhưng nếu không thể dung hòa được và cần phải chọn lựa một trong hai đạo luật và gạt bỏ đạo luật kia thì các vị thẩm phán bắt buộc phải chọn lựa. Thủ tục cần được áp dụng trong các trường hợp thông thường là đạo luật ban bố sau sẽ có hiệu lực cao hơn đạo luật ban bố trước. Nhưng điều quan trọng là chỉ áp dụng thủ tục này khi hai đạo luật đều có thẩm quyền ngang nhau.
Trái lại, nếu hai đạo luật trái ngược nhau ở hai cấp khác nhau, một đạo luật thuộc nguyên quyền và một đạo luật thuộc ủy quyền, thì căn cứ vào tính chất của các đạo luật để quyết định, tức là đạo luật thuộc nguyên quyền có giá trị và hiệu lực hơn đạo luật ủy quyền. Như vậy, mỗi khi một đạo luật do nghị viện lập pháp ban hành mà trái ngược với tinh thần Hiến pháp thì các vị thẩm phán phải căn bản dựa trên Hiến pháp mà quyết định, nghĩa là chỉ công nhận có Hiến pháp mà thôi và tuyên bố đạo luật kia là vô hiệu lực.
Nhưng, sau khi nhận xét như trên, chúng ta không có quyền nói như một số người rằng nếu các vị thẩm phán có quyền tuyên bố một đạo luật trái ngược với tinh thần Hiến pháp là một đạo luật vô hiệu lực, các vị thẩm phán sẽ có quyền quyết định theo ý nghĩ riêng của họ thay thế quyết định của đạo luật do nghị viện lập pháp ban hành bằng một quyết định dựa trên ý kiến riêng của họ. Dù có hai đạo luật trái ngược nhau, các vị thẩm phán vẫn chỉ có quyền chọn lựa một trong hai đạo luật, như vậy tức là họ chỉ có quyền sử dụng trí phán đoán của họ chứ không phải ý chí riêng của họ. Nói ngành tư pháp là một cơ quan bảo vệ một Hiến pháp có hạn định để chống lại những sự lạm dụng quyền lực của ngành lập pháp là như vậy. Chính vì những trường hợp này mà chúng ta cần phải giữ cho ngành tư pháp được độc lập không bị ngành lập pháp uy hiếp và xâm lấn, và vì vậy, các vị thẩm phán trong ngành tư pháp cần phải có một nhiệm kỳ lâu dài, có hiệu lực trong suốt thời gian mà các vị đó vẫn giữ được một hành vi đứng đắn.
Sự độc lập của ngành tư pháp là một yếu tố thiết yếu hơn nữa để bảo vệ Hiến pháp và các quyền tự do của nhân dân trong những trường hợp mà nghị viện lập pháp có thể sử dụng ý xấu thông qua những đạo luật có ảnh hưởng tai hại cho quyền lợi của quốc gia hoặc cho quyền lợi của một thiểu số bị uy hiếp. Tuy tôi lúc nào cũng sẵn lòng công nhận nguyên tắc cộng hòa trong đó chủ trương rằng nhân dân có quyền thay đổi hay sửa đổi Hiến pháp khi họ nhận thấy bản Hiến pháp đó không thích hợp để thúc đẩy nền hạnh phúc của mình nhưng chúng ta không thể công nhận trường hợp các vị dân biểu lợi dụng dư luận nhất thời của đa số nhân dân để phản đối một điều khoản trong Hiến pháp hoặc để thông qua một đạo luật sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp lúc nào cũng có hiệu lực đối với toàn thể nhân dân trên cả phương diện tập thể lẫn phương diện cá nhân, và chỉ có nhân dân mới có quyền thay đổi hoặc sửa đổi Hiến pháp qua một phương thức trang nghiêm và đầy đủ thẩm quyền. Còn trong khi dân chúng chưa phát biểu ý kiến của họ qua những phương thức đó thì các vị dân biểu vẫn phải tôn trọng bản Hiến pháp cũ mà không có quyền vượt qua giới hạn của mình. Nhưng dù sao đi nữa, chúng ta cũng cần công nhận là các vị thẩm phán phải có một tinh thần vô cùng mạnh mẽ mới có thể hy vọng ngăn chặn những sự xâm phạm của ngành lập pháp, nhất là trong trường hợp các vị dân biểu biết lợi dụng ý kiến nhất thời của đa số dân chúng.
Các vị thẩm phán trong ngành tư pháp cần phải độc lập thì mới có thể bảo vệ được Hiến pháp, và hơn nữa là bảo vệ được quyền lợi của một giai cấp công dân thiểu số khỏi bị thiệt hại vì những đạo luật thiếu công bằng hoặc có tính chất thiên vị, đảng phái. Các vị thẩm phán cần phải có một thái độ hết sức cương quyết thì mới có thể hạn chế phạm vi áp dụng những đạo luật thiếu công bằng đó. Như vậy, các vị thẩm phán có thể thu hẹp ảnh hưởng của những đạo luật có hại và làm giảm thiểu tác hại của những đạo luật đó. Chính vì vai trò này của họ mà chúng ta có thể nói rằng ngành tư pháp chính là một yếu tố ngăn cản ngành lập pháp những đạo luật thiếu công bằng và có ảnh hưởng tai hại viết ra. Đây là một trường hợp có rất nhiều ảnh hưởng tới toàn thể tính chất của chính phủ chúng ta, và vì ảnh hưởng đó rất kín đáo cho nên ít người nhận thấy rõ ràng sức mạnh của nó. Sự thanh liêm và ôn hòa của các thẩm phán trong ngành tư pháp đã đem lại rất nhiều kết quả hữu ích tại các tiểu bang mà chỉ những người thâm độc và điêu ngoa mới phủ nhận những kết quả đó, còn những người có đạo đức thì không ai là không hoan nghênh và tán thành điều này. Vì vậy, tất cả những người biết nghĩ nên khuyến khích các vị thẩm phán duy trì tính chất độc lập và cương quyết của họ, bởi nếu nhờ một đạo luật thiếu công bằng mà ngày nay ta hưởng lợi thì biết đâu lại chính vì đạo luật đó làm chúng ta bị thiệt thòi và uất ức? Hơn nữa, nếu không có các vị thẩm phán thanh liêm và rộng lượng hạn chế ảnh hưởng tai hại của những đạo luật thiên vị và thiếu công bằng thì dân chúng sẽ mất niềm tin luật pháp và vì vậy sẽ trở nên đa nghi và chán nản.
Chúng ta không thể hy vọng các vị thẩm phán có một thái độ trung thành với Hiến pháp và với quyền tự do căn bản của nhân dân nếu nhiệm kỳ và chức vụ của các thẩm phán chỉ có tính tạm thời, ngắn ngủi. Nếu các vị thẩm phán chỉ được bổ nhiệm trong những nhiệm kỳ ngắn, dù theo bất cứ một thể thức nào hoặc do bất cứ một ngành quyền nào cũng vậy, họ sẽ không thể có được một tinh thần độc lập và cương quyết. Nếu quyền bổ nhiệm các vị thẩm phán được giao phó cho ngành hành pháp hoặc ngành lập pháp thì cố nhiên là họ sẽ phải lụy thuộc một trong hai ngành này vì họ cần phải lấy lòng những người có quyền bổ nhiệm họ. Nếu quyền bổ nhiệm lại giao phó cho dân chúng, tức là chức vụ thẩm phán phải do dân chúng bầu cử, thì lại e ngại rằng các vị thẩm phán muốn đắc cử sẽ phải thi nhau làm cho mình nổi tiếng, càng nổi tiếng càng hay, chứ không cần để ý gì tới Hiến pháp hoặc luật pháp.
Ngoài những lý do kể trên còn một lý do khác rất quan trọng để chủ trương các vị thẩm phán cần phải có một nhiệm kỳ lâu dài là những điều kiện chuyên môn mà một vị thẩm phán phải có. Chúng ta vẫn thường nghe nhiều người than phiền là một chính phủ tự do bao giờ cũng đi đôi với một bộ luật pháp rắc rối và tỉ mỉ. Để tránh nguy cơ các vị thẩm phán làm theo ý muốn riêng của mình trong các vụ xét xử, cần phải bắt buộc các vị đó tuân thủ những lệ luật rõ ràng, những quyết định đưa ra về những vụ tương tự đã từng xảy ra, có vậy thì trong bất cứ một vụ việc nào nhiệm vụ của các vị thẩm phán cũng đã được quy định rõ ràng chứ không còn mơ hồ, khiến cho họ không thể theo ý riêng của mình. Qua thời gian, các vụ án càng ngày càng nhiều, các ý kiến tranh tụng mỗi ngày mỗi dồi dào hơn, kho tàng kiến thức về luật pháp áp dụng trong những vụ xét xử cố nhiên là càng ngày càng đồ sộ thêm, vì thế, muốn trau dồi được những kiến thức đó một cách đầy đủ thì các vị thẩm phán cần phải là những người có chuyên môn, phải bỏ nhiều công sức và thời gian để tích luỹ được một sự hiểu biết thích hợp. Vì vậy, trong xã hội chỉ có một số rất ít người có đủ tài cán và hiểu biết để đảm nhiệm chức vụ của các vị thẩm phán. Hơn nữa, trên đời này những người có đạo đức, thanh liêm và trung trực không phải là nhiều nên số người vừa có tài lại vừa có đức quả là rất hiếm. Như vậy, trong khi chính phủ cần phải chọn lựa những người vừa có tài lại vừa có đức để bổ nhiệm vào những chức vụ thẩm phán, nếu nhiệm kỳ của họ chỉ mang tính chất lâm thời, ngắn ngủi thì làm thế nào có thể tìm được những người tài đức sẵn lòng từ bỏ những chức nghiệp nhiều quyền lực, nhiều danh lợi khác để chấp nhận một chức nghiệp thiếu vững chắc như chức nghiệp thẩm phán? Nếu như vậy thì chức nghiệp này, trong khi cần những người vừa có đức, sau này sẽ chỉ có những người thiếu tài, thiếu đức, khiến cho ngành tư pháp vì vậy mà mất uy tín, mất lợi ích đối với nhân dân hay không? Trong tình trạng hiện tại của quốc gia và nhất là sau này, nguy cơ đó thật là lớn lao tuy ít người nhận thức được rõ ràng.
Xét về tất cả mọi phương diện, chúng ta không có một lý do nào để nghi ngờ là Hội nghị Lập hiến đã quyết định một cách thiếu khôn ngoan khi quyết định dùng hành vi chính đáng làm một tiêu chuẩn để quy định nhiệm kỳ và chức vụ của các vị thẩm phán trong ngành tư pháp. Hơn nữa, chúng ta sẽ có quyền chê trách Hội nghị nếu hội nghị đã không ghi vào dự thảo Hiến pháp điều khoản quan trọng này để làm căn bản cho một chính thể đắc lực, một ngành tư pháp đắc lực. Kinh nghiệm của nước Anh về điểm này là một dẫn chứng sáng láng về tính chất hợp lý và ích lợi của quyết định đã nêu trong dự thảo Hiến pháp.
Nguồn: Trích từ Ralph H.Gabriel (1954). Hamilton, Madison and Jay: On the Constitution. Đại học Yale, Hoa Kỳ. Được dịch và ấn hành bởi Việt Nam Khảo dịch xã (có trụ sở ở 61 Lê Văn Duyệt, Sài gòn) vào các năm 1959 và 1966 ở miền Nam Việt Nam, dưới tên gọi là “Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ”.

 
						