Các giá trị Châu Á và chủ nghĩa tự do cổ điển (Phần 4/6)

Các giá trị Châu Á và chủ nghĩa tự do cổ điển (Phần 4/6)

Về các Vấn đề Kinh tế - Xã hội trong Xã hội Phương Tây

Những người cổ vũ các giá trị châu Á đã chỉ ra những vấn đề kinh tế xã hội trong xã hội phương Tây nhằm chứng minh rằng chủ nghĩa tự do có nhiều khiếm khuyết. Cuộc đại khủng hoảng tài chính năm 2008, bắt nguồn từ các nước phương Tây, chính là bằng chứng chứng minh sự yếu kém của tư tưởng kinh tế của phái tự do phương Tây. Các nền kinh tế phương Tây rơi vào tình trạng đình đốn từ đó, cùng với sự vực dậy nhanh chóng của các nền kinh tế ngoài phương Tây, đã đưa đến dự đoán rằng tương lai thuộc về châu Á. Dường như đây là một lý do nữa để nghi ngờ tính ưu việt vốn có của mô hình kinh tế phương Tây, chứ chưa nói đến chủ nghĩa tự do cổ điển với nhà nước tối thiểu mà cuốn sách này khảo cứu.

Kishore Mahbubani, một người ủng hộ các giá trị châu Á - năm 2009, là một trong số năm mươi người hàng đầu định hình cuộc tranh luận về tương lai của chủ nghĩa tư bản1 - viết rất nhiều trên tờ Financial Times về cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và ý nghĩa của cuộc khủng hoảng này. Trong một bài báo trên tờ Financial Times, nhan đề “Western capitalism has much to learn from Asia” [Chủ nghĩa tư bản phương Tây cần học hỏi nhiều hơn nữa từ châu Á], ông đánh giá sự kiện năm 2008 không phải là vấn đề cơ bản của “bản thân chủ nghĩa tư bản”, mà là một hình thức đặc biệt của chủ nghĩa tư bản phương Tây2. Ông chỉ ra vô số sai lầm chiến lược mà phương Tây phạm phải trong cách thức vận hành chủ nghĩa tư bản. Một trong những vấn đề ông cáo buộc phương Tây là không nhận thức được rằng “muốn chủ nghĩa tư bản hoạt động tốt, các chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và giám sát”, là bài học mà ông chỉ ra “mà nhiều chính phủ phương Tây lãng quên”. Ông nhấn mạnh thêm rằng:

“Dù cho có tất cả những sai sót và khiếm khuyết của nó, chủ nghĩa tư bản vẫn là hệ thống tốt nhất để nâng cao phúc lợi con người. Đây là lý do vì sao cả thế giới (trừ Triều Tiên) đều chấp nhận nó (CNTB), dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng nó cũng là một hệ thống vốn không hoàn hảo, như Adam Smith nhắc nhở chúng ta ngay từ đầu. Nó đòi hỏi sự quản lý và giám sát nghiêm ngặt của chính phủ. Người châu Á không bao giờ lãng quên điều này”.

Luận cứ này là một phần của lập luận tổng quát, cho rằng chủ nghĩa tư bản phương Tây không phải là mô hình kinh tế tốt duy nhất để học theo và còn có những con đường khác để phát triển tư bản chủ nghĩa. Luận cứ này rất có giá trị. Thực ra, các nhà kinh tế chính trị học thực chứng đã chỉ rõ rằng có nhiều loại hình chủ nghĩa tư bản, chứ không chỉ có một bản thiết kế duy nhất để sao chép (Hall & Soskice, 2001). Các xã hội châu Á thực sự áp dụng mô hình nhà nước phát triển nhằm gặt hái được nhiều thành công. Ngay cả chủ nghĩa tư bản châu Á cũng minh chứng cho thấy nhiều sự đa dạng bên trong - từ mô hình thành bang của Hồng Kông và Singapore, cho đến các đối tác lớn hơn của họ (Hundt & Uttam, 2017).

Cái mà chúng tôi không đồng ý đó là việc bỏ qua một quan điểm tự do cổ điển rất quan trọng trong việc giải thích cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, điều làm lu mờ những đóng góp quan trọng của nó đối với diễn ngôn chính sách. Nhiều nhà kinh tế học phân tích cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và phát hiện ra nó bắt nguồn từ chính sách tiền tệ thất bại của Cục Dự trữ Liên bang (Mỹ), cụ thể là việc tiếp tục giữ lãi suất thấp một cách giả tạo và việc chính phủ tài trợ nhà ở giá rẻ (Horwitz, 2010). Cả hai chính sách này đều đã dẫn đến tình trạng đầu tư sai lệch và bong bóng nhà ở, chắc chắn sẽ dẫn tới sụp đổ.

Điều này không có nghĩa là các quy định không đóng bất kỳ vai trò nào trong cuộc khủng hoảng này. Chúng tôi cũng không khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản phải được hoàn toàn thả lỏng, cái mà Mahbubani trình bày như một “sai lầm chiến lược” của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Thay vào đó, vấn đề là các quy định phải đơn giản, dễ dự đoán và tạo thuận lợi cho giao dịch thị trường. Nhà kinh tế học Jeffrey Friedman đã chỉ ra cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn phần nhiều bởi “mạng lưới các quy định phức tạp, ngày càng phình to, được thiết kế nhằm hạn chế và điều chỉnh chủ nghĩa tư bản hiện đại” (Friedman, 2009, trang 127). Mạng lưới này tương tác với nhau và cuối cùng dẫn đến việc chứng khoán hóa các khoản thế chấp bất động sản dưới chuẩn và xếp hạng AAA sai; nhưng đây chỉ là nguyên nhân gần (proximate cause) chứ không phải là nguyên nhân cơ bản dẫn đến cuộc khủng hoảng (Friedman, 2009).

Do đó, lời giải thích này cho cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 chỉ là một phần của lời giải thích rộng hơn của chủ nghĩa tự do cổ điển về những mối nguy hiểm đến từ sự can thiệp của chính phủ vào hệ thống tài chính và tiền tệ. Lý giải được đưa ra là hầu hết những bất ổn kinh tế trong thế kỷ 20 không phải là kết quả của bất cứ thiếu sót cố hữu nào trong chủ nghĩa tư bản, hay “chủ nghĩa tư bản phương Tây” về vấn đề đó, mà là sự can thiệp của nhà nước tác động đến lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng (Rothbard , 2008; Veryzer, 2013; Schlichter, 2014).

Tất nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 không hẳn là vấn đề duy nhất mà các nền kinh tế phương Tây đối mặt. Thật vậy, nhiều người ủng hộ các giá trị châu Á, và các nhà bình luận chung, đã chỉ ra một tình hình bất ổn chung xuất hiện trong các xã hội phương Tây. Đối với Mahbubani, phương Tây đứng trước những “nguy cơ suy thoái”, mang lại những bài học quan trọng cho phần còn lại của thế giới không thuộc phương Tây (Mahbubani, 1993). Để đưa ra một nhận định đầy đủ về sự suy tàn của phương Tây trên trường quốc tế sẽ nằm ngoài phạm vi của cuốn sách này. Nhưng có một số điểm rất đáng giá.

Điều chúng tôi đặt ra là quan điểm cho rằng những vấn đề xã hội này là kết quả của “tự do không giới hạn”, hay còn gọi là một “sự tôn thờ anh hùng” của “tự do cá nhân” (Mahbubani, 1993). Cáo buộc của Kishore Mahbubani ở đây gây nghi vấn:

“Sự tôn thờ anh hùng tương tự được đưa ra với ý tưởng về tự do cá nhân. Nhiều điều tốt đẹp xuất phát từ ý tưởng này. Chế độ nô lệ chấm dứt. Tiếp theo là nhượng quyền thương mại toàn cầu. Nhưng tự do không chỉ giải quyết các vấn đề; mà nó cũng được xem là nguyên nhân. Hoa Kỳ đã thực hiện một thử nghiệm xã hội lớn, phá bỏ hết thể chế xã hội hạn chế cá nhân này đến thể chế xã hội hạn chế cá nhân khác. Kết quả thật thảm hại. Kể từ năm 1960, dân số Hoa Kỳ tăng 41% trong khi tội phạm bạo lực tăng 560%, những người mẹ đơn thân sinh con tăng 419%, tỷ lệ ly hôn tăng 300% và tỷ lệ trẻ em sống trong nhà của cha mẹ đơn thân tăng 300%. Đây là hiện tượng suy tàn xã hội khủng khiếp. Nhiều xã hội hoang mang trước những viễn cảnh đang diễn ra trên bờ vực suy thoái này. Nhưng thay vì che dấu đi với sự khiêm tốn, người Mỹ tự tin rao giảng những phẩm chất của tự do cá nhân không bị gò bó, mà phớt lờ những hậu quả đem lại cho xã hội”(1993, tr. 14).

Đây không phải là một trích dẫn học thuật khó hiểu. Mọi người thường nghĩ rằng chủ nghĩa tự do không có hiệu quả trong một xã hội mang nặng tính bảo thủ như xã hội châu Á vì nó sẽ xóa sạch tất các chừng mực đạo đức xã hội. Điều gì sẽ xảy ra nếu chủ nghĩa tự do có nghĩa là tự do bắn người khác bừa bãi trên đường phố? Làm theo ý mình mà không có chút đạo đức nào?

Việc đổ lỗi gây ra tội phạm bạo lực, tỷ lệ ly hôn, gia đình tan vỡ, và sự suy thoái xã hội đối với tự do cá nhân là một luận điểm kỳ lạ. Chúng tôi cho rằng trong khi có nhiều vấn đề tồn tại trong xã hội Mỹ, đó là những vấn đề ngẫu nhiên xuất phát từ những thất bại trong hoạch định chính sách, chứ không phải là “những điểm yếu về cấu trúc trong các giá trị và thể chế cốt lõi của nó” như Mahbubani (2018, trang 111) nghĩ. Trên thực tế, rất nhiều vấn đề xã hội mà đoạn văn này nhấn mạnh rõ ràng, các gia đình đơn thân, ly hôn và tội phạm bạo lực, là kết quả của các chính sách xã hội can thiệp thất bại (Sowell, 1996; Hiệu trưởng, 2014; Murray, 2015). Ngày nay, hai vấn đề kinh tế xã hội nghiêm trọng bao gồm, lạm dụng thuốc phiện và bạo lực liên quan đến ma túy, bắt nguồn từ thất bại của cuộc chiến chống ma túy và ảnh hưởng từ định hướng trừng phạt quá mức (Mirron et al và cộng sự, 2019; Redford, 2019).

Ngoài ra, không thể tin rằng bất kỳ nhà triết học chính trị tự do tự trọng nào đều ủng hộ chủ nghĩa tự do không được kiểm soát, hoặc đối với vấn đề, “tôn thờ anh hùng” của tự do cá nhân. Chắc chắn, chủ nghĩa tự do cổ điển được nêu bật trong bài viết này tin rằng phần lớn các thể chế thịnh hành của chúng ta là kết quả của quá trình tiến hóa văn hóa theo thời gian, và người ta sẽ phạm tội tự phụ ngay khi hiện thực hóa kỹ thuật xã hội. Phương thức tốt nhất là sự thay đổi dần dần, liên quan đến các hành động tự phát của các cá nhân. Thật vậy, quá trình tiến hóa này có thể dẫn đến những kết quả mà một số người không thể lường trước được hoặc thậm chí dự đoán trước, chẳng hạn như những thay đổi trong cấu trúc gia đình và quan hệ hôn nhân (Horwitz, 2015).

Nhưng điểm quan trọng đáng chú ý ở đây là có một sự khác biệt rõ ràng, cơ bản và định tính giữa những thay đổi trong cấu trúc xã hội, vốn là kết quả của quá trình tiến hóa dần dần và những áp đặt từ trên xuống đến từ các chính sách của chính phủ nhằm phá bỏ các thể chế xã hội. Do đó, chúng thường được xem như những kết quả thảm hại của “cuộc thử nghiệm xã hội lớn” của Hoa Kỳ (Mahbubani, 2018a, p111). Nhưng sai lầm sẽ xảy ra nếu kết hợp những mối nguy hiểm này với sự hoài nghi về chủ nghĩa tự do và tự do cá nhân nói chung.

(còn nữa)

Chú thích:

(1) Financial Time. (2009, March 10). Future of Capitalism: Fifty People Who Will Frame the Debate. Financial Time. Retrieved from http://ig-legacy.ft.com/content/7f608da-0d7d-11de-8914-0000779fd2ac#axzz2yHlqre00.

(2) Mahbubani, K. (2011, January 25). Asia has had enough of excusing the west. Financial Times. Retrieved from http://mahbubani.net/articles%20by%20dean/Asia%20has%20had%20enough%20of%20excusing%20the%20west.pdf; Mahbubani, Kishore. (2012, February 7). Western Capitalism Has Much to Learn from Asia. Financial Times. Retrieved from http://www.mahbubani.net/articles%20by%20dean/Western%20capitalism%20much%20to%20learn%20from%20Asia.pdf.

Nguồn: Bryan Cheang & Donovan Choy, Liberalism Unveiled Forging A New Third Way In Singapore, Chương 2, World Scientific, 2020

Dịch giả:
Nguyễn Thị Lương