Lịch sử phân tích kinh tế (Phần 3)

Lịch sử phân tích kinh tế (Phần 3)

Tính cách mạng

Học thuyết cận biên nổi lên trong ba bối cảnh rất khác nhau. Có lẽ trường hợp của Anh là gần nhất với cách biểu trưng của Kuhn. Dù sao đó là ý kiến của Hutchison (1978: 75). Trái lai, Blaugh nghĩ ngược lại rằng: “đã không có một cuộc cách mạng về khái niệm lợi ích; đó không phải là một thay đổi đột ngột nhưng một biến đổi tuần tự không chối bỏ dứt khoát những ý tưởng cũ; và tất cả đã không diễn ra trong những năm 1870” (1985: 307). Quả thật rằng thái độ của Marshall đã xoá mờ các ranh giới. Ông không chấp nhận được những đánh giá dứt khoát của Jevons về Ricardo và Mill. Chắc chắn rằng Marshall không phải là người yêu sách một cuộc cách mạng khoa học. Ngược lại, ông muốn là các nhà kinh tế có một tiếng nói chung và đứng trong dòng tiếp nối của những nhà sáng lập. Theo ông, lí thuyết chủ quan về giá trị không nên thay thế nhưng là bổ sung cho lí thuyết khách quan. Đối với hai truyền thống khác, bối cảnh là hoàn toàn khác. Tại Áo, cách tiếp cận biên phát triển trong sự đối lập với sử quan luận vốn thống trị các nhà kinh tế Đức. Nhưng thành công của nó là không vững chắc. Nếu những quan điểm của Menger thắng thế ở Áo – ông có một vị thế thể chế rất vững – thì lại hoàn toàn không thấm vào Đức được. Như Kirzner đã nhận xét, “trường phái mới được gọi là trường phái Áo với một hàm ý xấu, do các nhà kinh tế Đức khinh thường ban cho hơn là một nhãn hiệu danh dự “ (1987, vol I: 147). Cuối cùng, riêng về trường phái walrasian, tình hình lại còn khác hơn nữa. Ngược lại với Marshall và Menger, Walras không có quyền lực thể chế. Về mặt này, tên gọi trường phái Lausanne là sai lạc. Dù sao đi nữa việc phổ biến những luận điểm walrasian là khá chậm. Đặc biệt là mặc dù có những điểm gần gũi tiềm tàng về mặt lí thuyết và những cố gắng của Walras, thế giới kinh tế Anh, cho đến cuối những năm 1930, hầu như không biết đến những luận điểm walrasian.             

Những nguyên nhân

Trên vấn đề rất được tranh cãi này, chúng tôi chỉ nêu lên những luận điểm sẵn có mà không đánh giá. Trong số những giải thích nhấn mạnh đến những khiếm khuyết của cách đặt vấn đề đã bị từ bỏ, có thể kể những cách giải thích chính sau:

1. Những thiếu sót logic của lí thuyết giá trị lao động. Cả Ricardo lẫn Marx đã không đưa lí thuyết giá trị ra khỏi ngõ bế tắc.

2. Những giả thiết cổ điển mất đi tính thích đáng. Diễn tiến lịch sử đã lần hồi làm cho những điểm trung tâm của lí thuyết cổ điển trở nên lỗi thời, như lí thuyết dân số và lương sinh tồn.

3. Lập luận ý thức hệ. Giá trị lao động đã trở thành một lí lẽ có lợi cho các nhà xã hội. Nếu chỉ có duy nhất lao động là tạo ra được giá trị thì lợi nhuận hiện ra như một sự cưỡng đoạt. Lí thuyết cổ điển do đó mang theo một siêu lí thuyết nguy hiểm về mặt xã hội vì phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa.     

Còn những lối giải thích tích cực, nhấn mạnh đến những ưu điểm của cách đặt vấn đề mới, dựa trên hai lí lẽ gắn liền với nhau:

1. Tính khoa học cao hơn của cách đặt vấn đề mới. Yếu tố thường được nêu lên nhất là tính tổng quát. Hơn nữa, theo Fisher (1986), những nhà sáng lập cách tiếp cận cận biên không nhất thiết đã nhận thấy là họ đã đề nghị một phương pháp lí luận đáp ứng những tiêu chí của các chương trình nghiên cứu theo nghĩa của Lakatos.

2. Sự cần thiết phải tìm hiểu những cơ sở vi mô. Quyết định cá nhân chỉ có thể là một chủ đề suy nghĩ của nhà kinh tế. Thật vậy nếu đối tượng phân tích là nền kinh tế phi tập trung, và do nền kinh tế này vận hành từ những quyết định cá thể, thì lí thuyết phải nghiên cứu đến những nguyên lí chi phối các quyết định này.       

3.5 Léon Walras (1834-1910)

Nếu ngày nay tầm quan trọng của Walras đã được thừa nhận đầy đủ thì sự thâm nhập của tư tưởng ông từng là chậm chạp và khó khăn. Walras không bao giờ có được chân giáo sư ở Pháp. Ông đã phải tự xuất bản và không tính toán công sức để phổ biến những tác phẩm của ông. Ngược lại với Marshall, ông rất ý thức là đã làm nên một đoạn tuyệt lí thuyết. Ông bảo vệ không úp mở một cách tiếp cận kinh tế học thật trừu tượng và toán học theo mô hình của vật lí cơ học trong khi ông chỉ là một nhà toán học nghiệp dư.

Tác phẩm Éléments déconomie politique pure (1874 và 1877) có mục tiêu nghiên cứu sự tương tác của những hiện tượng kinh tế. Tất nhiên ý tưởng không phải là mới nhưng Walras đã đề nghị một cách khái niệm hoá độc đáo dưới hình thức một hệ phương trình đồng thời. Nhằm mục đích này ông đã triển khai lập luận theo những vòng tròn đồng tâm, đi từ một mô hình sơ cấp được khái quát dần bằng việc lần lượt đưa thêm vào những phương thức ấn định. Bắt đầu bằng phân tích cách ấn định giá của những sản phẩm và dịch vụ, ông tiếp tục phân tích cách ấn định giá của những dịch vụ sản xuất, những sản phẩm tư bản và cuối cùng là tiền tệ. Mỗi một mô hình được phân tích dưới hai góc độ, góc độ tồn tại của cân bằng (và những đặc tính của cân bằng) và góc độ tính ổn định của cân bằng. Trong ba bước phân tích đầu không có tiền tệ. Việc đưa tiền tệ vào sau chỉ để ấn định mức giá tuyệt đối và không đặt lại quan niệm phân đôi được Walras vận dụng.

 Hãy dừng lại ở mô hình sơ đẳng nhất, được trình bày trong đoạn II của Éléments đề cập đến trao đổi lẫn nhau của hai hàng hoá. Mô hình này đã chứa nhiều yếu tố cấu thành những mô hình phức tạp hơn: thông tin hoàn hảo về chất lượng sản phẩm, khan hiếm là cơ sở của cầu, tối đa hoá lợi ích, lợi ích cận biên giảm dần, tính cộng và tính độc lập của những hàm lợi ích, khả năng sống sót của các tác nhân ngoài cân bằng, trao đổi trực tiếp “hàng đổi hàng”, tương tác giữa cung và cầu, qui tắc điều chỉnh. Mô hình đưa đến một loạt những kết quả tổng quát: trước hết là sự bằng nhau của giá tương đối và tỉ số những lợi ích cận biên, tiếp đấy là điều sau này được gọi là “định luật Walras”, và cuối cùng là điều sau này trở thành “định lí tổng quát về phúc lợi”.

Trong đoạn IV của Éléments, Walras mở rộng phân tích đến những thị trường dịch vụ sản xuất. Ông phân biệt dịch vụ do một nguồn lực cung cấp và bản thân nguồn lực đó (cũng như giá của dịch vụ này và giá của nguồn lực). Đối với lí thuyết tân cổ điển, đây là một bước tiến quan trọng. Nó cho phép việc đồng nhất hoá những nhân tố sản xuất và thay thế một cách nhìn theo khái niệm “kho” bằng một cách nhìn theo khái niệm “luồng”, và như thế giải phóng khỏi phương pháp luận những phân biệt thực chất được các nhà cổ điển ưa chuộng. Các doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ giữa thị trường sản phẩm và thị trường những dịch vụ sản xuất. Nếu giá cả những sản phẩm vượt quá chi phí sản xuất thì sản xuất tăng, và ngược lại. Sau khi đưa thị trường sản phẩm và thị trường những nhân tố vào, có thể xây dựng mô hình cân bằng chung. Cân bằng là sự hoàn thành ba điều kiện: (1) mỗi cá thể tối đa hoá lợi ích của mình; (2) cho mỗi sản phẩm và dịch vụ, cung và cầu bằng nhau; (3) giá cả của mỗi sản phẩm bằng với chi phí sản xuất ra nó.

Ý đồ của Walras không chỉ giới hạn ở việc chứng minh khả năng logic của cân bằng. Ông còn muốn tính đến cách mà nền kinh tế tự phát đạt đến những đại lượng cân bằng. Chính nhằm mục đích này mà ông đề nghị khái niệm dò dẫm. Nhưng ở đây tư tưởng của ông ít sức thuyết phục hơn. Ngay ẩn dụ đã mang tính đánh lừa vì nó gợi ý sự đồng nghĩa với quá trình hấp dẫn của các nhà cổ điển, trong lúc có một khác biệt triệt để giữa hai khái niệm miễn là ta hiểu thuật ngữ dò dẫm trong một nghĩa kĩ thuật. Trong trường hợp này nó được gán cho một qui tắc cấm tiến hành trao đổi ở những “giá giả”, nghĩa là những giá không phải là những giá cân bằng. Chính quan điểm của Walras về cách kiến giải dò dẫm cũng không rõ ràng. Lúc đầu ông hơi ngây thơ nghĩ rằng đó là một biểu trưng thích hợp những điều chỉnh cụ thể của thị trường, khiến ông cho rằng đã hoàn thành ý đồ lí thuyết của mình. Tuy nhiên theo Jaffé (Walker, 1983), ông đã lần hồi xa rời cách nhìn này để cuối cùng chỉ xem sự dò dẫm như một quá trình lặp lại và phi thời gian tính của phép tính những đại lượng kinh tế. Do đó mô hình của ông không còn một mệnh đề chủ yếu về tính ổn định hay về sự hình thành của giá cả, và đây là một thiếu sót quá hiển nhiên. Những nghiên cứu sau này đã làm rõ hơn khó khăn sâu sắc này. Khó khăn thứ nhất liên quan đến những điều kiện logic của tính ổn định: nếu tính thay thế thô giữa tất cả các sản phẩm, một giả thiết vốn đã là rất khắt khe, là một điều kiện đủ cho tính ổn định thì giả thiết này thiếu cơ sở kinh tế vi mô. Khía cạnh thứ hai liên quan đến bối cảnh thể chế nằm ở đằng sau giả thiết dò dẫm. Giải thích bối cảnh này làm hiện rõ rằng kinh tế walrasian là một biến thể đặc biệt của một nền kinh tế kế hoạch hoá, một kết quả đầy nghịch lí vì mục tiêu được tuyên bố của lí thuyết là phát hiện sự vận hành của một xã hội phi tập trung.

Bởi thế đánh giá tổng kết có nhiều tương phản. Một mặt, Walras đã đưa việc khái niệm hoá cân bằng, trên một cơ sở chủ quan, tiến một bước dài. Mặt khác lí thuyết của ông không giúp hiểu được sự vận hành thật sự của nền kinh tế thị trường. Một đánh giá như thế không phải là không có tầm quan trọng trong chừng mực mà, ngay sau thế chiến thứ hai, chương trình nghiên cứu do Walras đề nghị được một trong những nhóm năng nổ nhất của giới kinh tế lấy lại. Một thành công kì diệu sau khi chết của nhà kinh tế Lausanne! Một phần lớn kinh tế học hiện đại là walrasian và tiếp tục lưu truyền những nguyên lí Walras đã thực hiện, đặt ưu tiên cho sự tồn tại, quan niệm vô cùng hạn hẹp về cạnh tranh hoàn hảo, việc loại trừ tiền tệ, giả thiết dò dẫm và vị thế hàng đầu của tính chứng minh trên tính thực tế.

Hơn nữa, đánh giá ngày nay về cách tiếp cận walrasian còn tùy thuộc vào cách đánh giá việc hình thức hoá. Đối với những ai chấp nhận lí thuyết kinh tế là một hệ thống tiên đề thuần túy, được dùng làm chỗ dựa cho những tranh luận chính trị, thì lí thuyết walrasian là một trường thích hợp trong đó diễn ra những cuộc đấu khái niệm phong phú. Ngược lại với điều thoạt tiên người ta có thể nghĩ, về mặt siêu lí thuyết trường đấu này vẫn còn mở ngõ. Thật vậy, nếu trong số những nhà walrasian cách kiến giải theo chủ nghĩa tự do là thống trị, thì cũng có nhiều hướng lập luận đầy hứa hẹn – ví dụ những hướng nhấn mạnh đến tính bội của cân bằng – mở ra cho những ai muốn ủng hộ những biện pháp chính trị keynesian bằng ngôn ngữ walrasian. Trái lại cách nhìn walrasian làm thất vọng nhóm ô hợp những ai khó chấp nhận quan niệm thuần túy tiên đề về lí thuyết kinh tế. Thách thức ở đây là tính thích đáng của mô hình walrasian như là một biểu trưng cho nền kinh tế thị trường hiện thực. Ngày nay, nhờ những suy tưởng của các nhà “cổ điển mới”, khái niệm walrasian về cân bằng được rộng rãi chấp nhận là mang tính tiên đề. Nhưng ý tưởng này có thể được kiến giải theo nhiều cách. Tất nhiên như các tác giả này có thể chiếu nét trung tâm của mô hình – sự hoàn thành tất yếu của cân bằng – lên điều được giải thích, tức nền kinh tế hiện thực. Nhưng cũng có thể có một cách kiến giải ngược lại. Cách này khẳng định rằng nếu mô hình walrasian không cho phép lí thuyết hoá những giao dịch ngoài cân bằng – và từ đó không thể đưa những hiện tượng mà trực giác gọi bằng khủng hoảng, thất bại công nghiệp, phá sản ... vào mô hình, thì mô hình là một lưới phân tích không thích đáng!                                                                   

3.6 Alred Marshall (1842-1924)

Marshall đã biết đến thành công sớm hơn Walras nhiều. Đối với những nhà kinh tế Anh thời bấy giờ, ông không chỉ là người hướng dẫn, nhưng còn là người phán xét chính thống tối cao. Tác phẩm chính của ông, Principles of Economics (1920) được tái bản nhiều lần và là sách chuẩn cho nhiều thế hệ sinh viên và nhà nghiên cứu. Có thể mô tả Marshall như một nhà kinh tế phân tích hỗ thẹn. Đặc điểm của tư tưởng ông là luôn có sự căng thẳng giữa mối quan tâm đến phân tích và nỗi lo bám sát vào thực tế. Đối với ông, vấn đề kinh tế không chỉ là việc phân bổ có hiệu quả những nguồn lực sẵn có nhưng còn phải giải thích là bằng cách nào những nguồn lực này lại hiện hữu. Do đó châm ngôn nổi tiếng của ông cho rằng sinh học, chứ không phải là cơ học, phải là khuôn mẫu cho kinh tế học. Nhưng thật ra, những đóng góp chính của ông (và dù sao là những đóng góp mà lịch sử giữ lại) lại thuộc về so sánh tĩnh! Từ đó không có gì ngạc nhiên là những bài viết của ông nhuộm tính nước đôi. Không bao giờ ông xây dựng một mô hình chính xác, với những giả thiết rõ ràng. Dù được đào tạo như một nhà toán học, ông nghĩ rằng vai trò của toán học là thứ yếu và vị trí của toán học nằm ở những phụ lục các tác phẩm kinh tế. Như Smith, ông viết cho người phong nhã. Nhưng vẻ giản dị của văn phong ông che giấu một lối viết tỉ mỉ. Những bài của ông giàu ẩn dụ, mà một số đã in đậm vào tâm khảm của các nhà kinh tế. Những nét này giải thích những đánh giá trái ngược nhau về ông. Một số đánh giá rất nghiêm khắc. Ví dụ, Samuelson viết rằng “những nhập nhằng của Marshall đã làm tê liệt những đầu óc tốt nhất của nhánh anglo-saxon của nghề nghiệp chúng ta” (dẫn theo Backhouse, 1985: 103). Ngược lại những tác giả ít đam mê trừu tượng hơn, ví dụ Friedman, thích ông hơn là Walras. Như O’Brien, họ sẵn sàng gởi trả lại tác giả lời khen của Marshall đối với Smith: “chính sự cân đối, khả năng nhìn thấy tính thống nhất trong sự đa dạng và tính đa dạng trong sự thống nhất, khả năng sử dụng phân tích để hiểu lịch sử và khả năng vận dụng lịch sử để sửa phân tích [...] làm cho ông nổi lên như một người duy nhất” (thư của Marshall gởi Price, dẫn theo O’Brien, 1981: 63).

Thường Marshall được trình bày như lí thuyết gia của cân bằng bộ phận, đối lập với Walras, nhà tiên phong của cân bằng chung. Tuy nhiên cần nhận rõ ở đây những khác biệt giữa hai tác giả. Với Marshall khái niệm thị trường liên quan đến một sản phẩm duy nhất, ví dụ cá hoặc luá. Ngược lại với Walras cân bằng luôn qui về hai sản phẩm (luá mì và yến mạch). Mỗi một trong hai quan niệm này chỉ có ý nghĩa vì một quan niệm qui chiếu về một nền kinh tế tiền tệ – chính vì tiền tệ có mặt ở hai đầu của giao dịch nên có thể không kể đến nó – và quan niệm kia qui chiếu về về một tình thế hàng đổi hàng. Hơn nữa đối với Walras, thị trường sơ cấp được xem như một mô hình thu nhỏ của nền kinh tế tổng thể. Với Marshall thì không phải như thế. Để dùng một hình ảnh thì Walras làm việc với một bản đồ thế giới trong lúc Marshall sử dụng những bản đồ tham mưu quân sự.  

Những đóng góp của Marshall cho lí thuyết kinh tế là vô số. Một số nhắm vào những điểm nhất định, như khái niệm độ co dãn. Một số khác liên quan đến một lĩnh vực rộng hơn. Ta hãy dừng lại ở một trong những lĩnh vực này, phân tích marshallian về những hàm cung. Theo Marshall phải vượt qua cách nhìn trao đổi thuần túy và quan tâm đến những quyết định sản xuất. Do đó, ông ưu tiên cho một lập luận bằng những hàm cung và cầu ngược. Trong khuôn khổ này, cân bằng được xác lập bằng sự điều chỉnh của số lượng, cho phép làm bằng nhau những giá cung và cầu trong khi trong khuôn khổ walrasian điều chỉnh được tiến hành bằng giá cả. Ông cũng cho là phân tích về cung phải được tiến hành ở nhiều mức độ trừu tượng khác nhau. Theo ông tiêu chí làm chỗ dựa cho sự phân biệt những cấp độ trừu tượng là thời gian. Ba tính thời gian được phân biệt: tức thì, ngắn hạn và dài hạn. Trong cấp độ đầu nhà cung cấp không có khả năng gia tăng số lượng của sản phẩm. Dạng của hàm cung do đó phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm. Nếu sản phẩm là dễ hỏng thì đường cung là thẳng đứng, những số lượng nằm trên trục hoành. Ngược lại, nếu sản phẩm là để tồn kho được, dạng của đường cung tùy thuộc vào những mong đợi của nhà cung cấp về giá cả tương lai. Trong ngắn hạn, doanh nghiệp có thể để cho số lượng sản xuất biến thiên trong giới hạn của năng lực sản xuất cố định. Chính ở đây phân tích cận biên có dịp phát triển. Chi phí cận biên được giả định là không đổi nên đường cung ngược cũng thế. Cuối cùng trong dài hạn, khi tất cả mọi yếu tố biến thiên, do có những lợi tức theo qui mô tăng dần nên hàm cung ngược có độ dốc âm. Do trong mỗi một bối cảnh trên đường cầu được giả định là giống nhau nên việc thiết lập những cân bằng khác nhau là dễ dàng. Trong tức thì cầu có vai trò then chốt và chi phí sản xuất không có ảnh hưởng trực tiếp đến việc ấn định giá cân bằng. Trong ngắn hạn, giá cân bằng được xác định theo sơ đồ chuẩn, ở giao điểm của hai đường có độ dốc khác nhau. Ngược lại trong dài hạn, những đường cung và cầu có thể gặp nhau nhiều lần. Một cách thô thiển, điều kiện ổn định địa phương là “giá bảo lưu” của người mua phải cao (thấp) hơn giá cung của một đại lượng gần sát và nhỏ (lớn) hơn đại lượng cân bằng. Ta thấy ngay mối quan hệ giữa phân tích này và những cách nhìn của Marshall về cách nối khớp những lí thuyết chủ quan và khách quan về giá trị. Đối với ông, phải luôn nhìn cung và cầu, để lấy lại hình ảnh nổi tiếng của ông, như hai lưỡi của một cái kéo, cả hai lưỡi đều cần thiết như nhau. Nếu khía cạnh cầu lấn át trong tức thì, thì khía cạnh chi phí ngày càng trở nên quan trọng khi càng rời xa thời điểm tức thì.

Phân tích này đã là một cú đẩy quyết định cho kinh tế học vi mô hiện đại mà Marshall đã có công mở đường. Nhưng phải thấy rõ giới hạn của phương pháp của ông và nhận thức rằng, ví dụ, ngược lại với vẻ bên ngoài, thời gian không can dự vào phân tích này! Phân loại marshallian nhằm vào việc phân chia các biến thành những biến được giả định là cố định và những biến có thể lựa chọn được. Việc qui chiếu về thời gian chỉ nhằm biện minh cho phân loại này chứ không thật sự cần thiết cho sự phân loại. Việc qui chiếu này có thể đánh lừa nếu nó làm người đọc lầm lẫn cho rằng quả thật đây là một phân tích có tính đến thời gian trong lúc phân tích không gì khác hơn là một so sánh tĩnh. Hơn nữa phân tích của Marshall không xử lí những quá trình điều chỉnh nhưng chỉ đề cập đến khía cạnh tồn tại. Đối tượng duy nhất của nó là việc xác định những đại lượng cân bằng.                         

Tập trung vào sự tồn tại là đặc điểm của phần lớn sách V, phần phân tích của Principles. Tuy nhiên trong chương 2 mà nội dung là sự phân tích nổi tiếng của thị trường lúa trong một thành phố nhỏ, Marshall đi vào nghiên cứu chiều kích quá trình. Lập luận được ông phát triển đưa đến kết luận là lúc tan chợ thị trường đạt đến cân bằng. Nhưng kết quả này phải thông qua những “trao đổi với những giá giả”. Điều này một mặt phá vỡ tính duy nhất của giá cả và mặt khác phải kéo theo những hiệu ứng thu nhập. Tuy nhiên Marshall gạt ngang những hiệu ứng này bằng cách giả định rằng lợi ích cận biên của tiền tệ là không đổi. Hơn nữa ông giả định một cách võ đoán rằng giá cân bằng của một ngày nhất định, đạt được vào cuối ngày, vẫn còn hiệu lực ngày hôm sau. Người ta cũng có thể hỏi không biết Marshall có đưa vào một cách ngầm ẩn một sự phân biệt về vai trò của các tác nhân kinh tế không, với một bên là những thương gia có thông tin và là những người định giá và bên kia là những tác nhân không chuyên. Mặt khác còn thấy được trong phân tích của ông một khuyết điểm vào loại những khuyết điểm hiện đại nhất, tức sự lẫn lộn giữa quan điểm người xây dung mô hình và quan điểm của những tác nhân trong nền kinh tế. Nhà lí thuyết có mặt khắp nơi và biết mọi hàm cung và cầu của các tác nhân. Đối với nhà lí thuyết, như thế thì không có gì dễ hơn việc tính toán những đại lượng cân bằng. Nhưng đối với chính các tác nhân thì đây là những đại lượng tư nhân không có sẵn. Như thế trang bị cho các tác nhân những thông tin mà chỉ riêng nhà lí thuyết mới có được là không đúng.

Không chối cãi được rằng Marshall có một vai trò quan trọng trong sự phát triển của lí thuyết kinh tế. Nhưng đồng thời, đối với ông hậu thế đã rất chọn lọc. Đời sau đã bỏ qua những yếu tố phi chính thống hơn của sự nghiệp ông – tiền tệ, cảm nhận về tính chất đặc biệt của thị trường lao động, vai trò của thương gia, những lợi tức tăng dần. Để giới hạn ở tiền tệ, có thể ghi nhận là bản thân ông không đứng trong một cách nhìn phân đôi và có lẽ đã hoàn toàn tán thành châm ngôn của Clower “sản phẩm không đổi lấy sản phẩm mà đổi lấy tiền tệ”. Nhưng ông đã trình bày điểm này như một nhận xét thực nghiệm chứ không như một nguyên lí lí thuyết, cần được xây dựng và có khả năng giữ một vai trò lí thuyết để phân biệt. Những trực giác được bảo vệ một cách yếu ớt như thế dễ bị trục xuất đi mất. Đó là điều đã xảy ra. Trong nghĩa này, Marshall gánh một phần trách nhiệm về số phận mà tư tưởng ông đã chịu phải.            

(Còn nữa)

Nguồn: “Histoire de l’analyse économiques” của Michel De Vroey trong Encyclopédie économique (Bách khoa kinh tế), nhà xuất bản Economica, Paris, 1990, trang 55-92

Nguồn dịch: Phantichkinhte123:Lịch sử phân tích kinh tế

Dịch giả:
Nguyễn Đôn Phước