Cách tiếp cận định lượng trong việc nghiên cứu vai trò của đường sắt đối với tăng trưởng kinh tế Mỹ (Phần 3)

Cách tiếp cận định lượng trong việc nghiên cứu vai trò của đường sắt đối với tăng trưởng kinh tế Mỹ (Phần 3)

IV

Sử dụng quy hoạch tuyến tính sẽ giảm, nhưng không loại bỏ, vấn đề về dữ liệu. Cần một lượng lớn thông tin mà trong đó một số không thể lấy được trực tiếp. Phần này trình bày cách suy ra các ước tính cần thiết từ các tập hợp dữ liệu hiện có, nhưng phần lớn bị bỏ quên. Vấn đề là việc áp dụng các kỹ thuật ước lượng thường được dành cho việc xây dựng các tài khoản thu nhập quốc dân vào một vấn đề lịch sử cụ thể. Cần nhấn mạnh rằng kết quả được trình bày dưới đây chỉ là tạm thời; nhiều điều chỉnh rõ ràng vẫn chưa được thực hiện. Tuy nhiên, các số liệu về tải trọng trong thương mại liên vùng là khá gần với thực tế để sử dụng trong phần cuối của bài viết này. Các vấn đề gặp phải trong việc chuyển một ước tính được quan niệm về mặt lý thuyết thành một ước lượng thực tế có thể được thảo luận tốt nhất bằng cách gộp chúng vào 4 nhóm: chuyến hàng, nhu cầu, giá cước vận tải đường sắt, và giá cước vận tải đường thủy.

Đã có nhiều người viết về thương mại nông nghiệp trong nước của Mỹ vào thế kỷ 19. Ngoài hàng loạt các bài viết của Schmidt trong Tạp chí Iowa về Lịch sử và Chính trị (1920-1922), còn có những nghiên cứu trong Tổng điều tra Nông nghiệp năm 1860 và 1880, các báo cáo hai năm một lần về thương mại trong nước do Bộ Tài chính phát hành giai đoạn 1876-1891, khối lượng phân phối sản phẩm nông nghiệp do Ủy ban Công nghiệp biên soạn năm 1900, và một loạt các bài báo trong Tổng kết hàng tháng về Thương mại và Tài chính năm 19001. Tất cả những nghiên cứu này đều xem xét hệ thống thị trường sơ cấp, và chúng cung cấp một lượng đáng kể dữ liệu về tầm quan trọng tương đối của các thành phố khác nhau. Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là các nguồn này – dù xem xét riêng lẻ hay kết hợp lại – cũng không cung cấp đủ dữ liệu để lập ra một lịch đầy đủ về các chuyến hàng ngũ cốc và thực phẩm cho bất kỳ năm nào trong thế kỷ 19. Schmidt tiến gần đến mục tiêu nhất khi đưa ra bản liệt kê các khoản tiếp nhận ngũ cốc của thị trường sơ cấp vào năm 1890. Tuy có mối quan hệ giữa các khoản tiếp nhận và chuyến hàng nhưng Schmidt không chỉ ra làm thế nào để chuyển đổi cái này thành cái kia. Một vấn đề còn khó khăn hơn là sự vắng mặt hoàn toàn một loạt các chuyến hàng cung cấp thực phẩm và những thứ cần thiết khác (provisions).

May mắn thay, các dữ liệu mong muốn thì tương đối có được dễ dàng. Số liệu về các chuyến hàng của từng mặt hàng nông sản khác nhau được lấy từ báo cáo của các sàn giao dịch nông sản, các ban hoặc phòng thương mại của mỗi thành phố thị trường sơ cấp. Những tài liệu này chứa nhiều thông tin rất đáng tin cậy, ngoại trừ trường hợp của Chicago, St. Louis, và New York, vì chúng đã không được chú ý đầy đủ. Bảng 1 cung cấp số liệu sơ bộ về các chuyến hàng bắp và lúa mì từ các thị trường sơ cấp. Việc biên soạn dữ liệu các chuyến hàng thịt vẫn còn đang trong quá trình thực hiện.

Ước lượng nhu cầu của thị trường thứ cấp khó khăn hơn nhiều so với các chuyến hàng từ thị trường sơ cấp. Vấn đề ở đây không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của một loạt thích hợp lượng cầu của các thị trường thứ cấp khác nhau; ngoại trừ những nơi dễ thấy như New York, Baltimore, và New Orleans, mà là không có cách nào biết được thành phố nào trong những thành phố của vùng phía Đông và Nam cấu thành một tập hợp hợp lý các thị trường thứ cấp.

BẢNG 1

CÁC CHUYẾN HÀNG BẮP VÀ LÚA MÌ

TỪ THỊ TRƯỜNG SƠ CẤP2, 1890

(ngàn tấn)

Thị trường sơ cấp

Lúa mì a

Bắp b

Chicago

Minneapolis

Duluth-Superior

Milwaukee

Peoria

Kansas City

St. Louis

Cincinnati

Toledo

Detroit

950

1.322

793

516

35

181

522

181

309

125

2.536

53

41

7

211

505

1.218

70

463

32

Tổng

4.934

5.136

a. Bao gồm bột mì chuyển thành lúa mì theo tỷ lệ: 1 thùng bột mì = 0,1430 tấn lúa mì.

b. Bao gồm bột bắp chuyển đổi thành bắp theo tỷ lệ: 1 thùng bột bắp = 0,1262 tấn ngô.

Nguồn: Xem thảo luận trong bài, tr.169, 178-79.

Khi đó, nhiệm vụ đầu tiên là tìm cơ sở nào đó để chia các vùng thiếu hụt thành các khu vực thị trường và xác định các thành phố đóng vai trò là trung tâm phân phối của khu vực. Tham khảo cơ bản cho sự phân chia này là một nghiên cứu thực hiện bởi Bộ Thương mại trong những năm 1920 về các khu vực cửa hàng bán buôn3. Nghiên cứu này phân chia cả nước thành 183 khu vực kinh doanh. Mỗi khu vực bao gồm một nhóm các hạt được một thành phố duy nhất cung cấp. Ví dụ, thông qua cuộc khảo sát của các công ty bán buôn nằm ở Boston, khu vực kinh doanh Boston đã được xác định và bao gồm 6 hạt xung quanh thành phố.

Do ngũ cốc và thực phẩm là sản phẩm của cửa hàng bán sỉ nên cuộc khảo sát của Bộ Thương mại cung cấp khuôn khổ phù hợp cho các ước tính. Các lãnh thổ được xác định gắn liền với nền kinh tế của những năm 1920 không phải là một cân nhắc quan trọng. Mạng lưới đường sắt cơ bản, đặc biệt là ở phía Đông, được thiết lập vào năm 1890 và duy trì ổn định trong ba thập niên tiếp theo. Trong những năm 1920, xe tải vẫn chưa thay đổi mô hình địa lý hiện có của thương mại. Xe tải dường như đã ảnh hưởng đến quy mô hàng tồn kho của các cửa hàng bán lẻ xa trung tâm hơn là ranh giới của khu vực thị trường. Ý tưởng xe có động cơ phù hợp với, chứ không phải là thay thế, mô hình hiện có, được củng cố bởi một nghiên cứu các khu vực bán buôn thực hiện vào cuối những năm 1930. Các khu vực thị trường được mô tả bởi khảo sát này hầu như là giống hệt với thiết lập trước đó4.

Cách phân chia khu vực thị trường này đã giúp đề ra quy trình ước lượng nhu cầu của từng khu vực theo hàng hóa. Nhu cầu của khu vực đối với một loại hàng hóa nhất định là chênh lệch giữa tổng cầu của khu vực đối với hàng hóa (bao gồm cả xuất khẩu) và lượng hàng hóa cung cấp từ bên trong khu vực. Vì vậy, để xác định nhu cầu, ước tính cả tổng cầu và lượng cung tại địa phương là cần thiết. Quy trình đưa đến những ước tính này có thể được minh họa bằng trường hợp của lúa mì.

Tổng cầu lúa mì trong một khu vực nhất định bao gồm 2 phần: nhu cầu địa phương và nhu cầu xuất khẩu. Nhu cầu xuất khẩu được xác định trực tiếp từ số liệu thống kê xuất khẩu do Bộ Tài chính cung cấp; nhu cầu địa phương được ước lượng gián tiếp. Nhu cầu địa phương đối với lúa mì gần như hoàn toàn dành cho con người. Trong cả nước, khoảng 10% mùa vụ lúa mì hàng năm được dành làm hạt giống và khoảng 2% dành làm thức ăn gia súc5. Tuy nhiên, phần lúa mì dành làm hạt giống ở các vùng thiếu hụt là ít hơn đáng kể so với phần đó ở phạm vi cả nước, bởi sản lượng lúa mì là khá nhỏ. Điều này đặc biệt đúng ở New England. Ở đây, lúa mì được dùng làm hạt giống chỉ chiếm ½ của 1% khối lượng con người tiêu thụ. Tương tự như vậy, lúa mì dành làm thức ăn gia súc dường như chủ yếu ở các khu vực sản xuất dư thừa. Do đó, ước tính về nhu cầu địa phương phần lớn được xác định là dành cho người tiêu thụ.

Tổng lượng tiêu thụ của con người trong một khu vực thị trường tương đương với mức tiêu thụ bình quân đầu người nhân với dân số của khu vực. Thống kê về dân số của khu vực lấy từ tổng điều tra dân số năm 1890. Ước tính dự kiến ​​tiêu thụ bình quân theo vùng được tính từ khảo sát công nhân đô thị năm 1909 do Hội đồng Thương mại Anh tiến hành6. Dựa trên những dữ liệu này, mức tiêu thụ lúa mì ước tính bình quân đầu người là 4,80 bushel/năm ở phía Bắc và 4,70 bushel/năm ở phía Nam. Những con số này không bao gồm điều chỉnh sự khác biệt trong tiêu thụ lúa mì giữa thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này, nếu được thực hiện, dường như không làm thay đổi đáng kể kết quả. Cuộc khảo sát năm 1913-1914 cho thấy mức tiêu thụ lúa mì trung bình đầu người là 5,08 bushel trong số 421 gia đình nông dân ở 5 tiểu bang Bắc Atlanta, và mức tiêu thụ bình quân đầu người trung bình là 5,13 bushel trong số 149 gia đình ở 3 tiểu bang phía Nam7.

Lượng cung lúa mì ở địa phương trong một khu vực thị trường là tổng sản lượng lúa mì hàng năm trong địa phương và lượng cung (số âm hoặc số dương) từ hàng tồn kho ở địa phương. Sở Nông nghiệp công bố các ước tính về sản lượng lúa mì năm 1890 theo tiểu bang chứ không theo hạt. Tuy nhiên, cần có dữ liệu của hạt để xác định sản lượng địa phương trong khu vực thị trường. Dữ liệu sản lượng tổng điều tra năm 1889 theo hạt được nhân với tỷ lệ sản lượng năm 1890:1889 cho tiểu bang mà trong đó có hạt cụ thể. Hàng tồn kho lúa mì nằm trong tay 2 nhóm chính: nhà bán buôn tại các thành phố trung tâm của khu vực thị trường, và nông dân. Thu thập dữ liệu về những thay đổi trong hàng tồn kho của các nhà bán buôn là điều không thể. Tuy nhiên, các báo cáo về hàng tồn kho nằm trong tay của nông dân vào ngày 1/3/1890 và ngày 1/3/1891 được Bộ Nông nghiệp công bố8. Do đó, có thể ước tính thay đổi trong hàng tồn kho của nông dân, là một yếu tố trong nguồn cung, mà sự thay đổi này có lẽ là nhiều hơn đáng kể hơn so với sự thay đổi trong hàng tồn kho của nhà bán buôn.

Ước tính tổng cầu lúa mì của tất cả các thị trường thứ cấp tại các khu vực thiếu hụt được thể hiện ở trong Bảng 2. Nó được chia thành khoản tiêu thụ thiếu hụt trong địa phương (tính được bằng cách trừ đi tổng sản lượng và những thay đổi trong hàng tồn kho của nông dân địa phương so với ước tính của tôi về cầu của địa phương trong từng khu vực) và xuất khẩu. Số liệu xuất khẩu là dựa vào Báo cáo Thương mại và Vận tải đường thủy của Bộ Tài chính.

BẢNG 2

NHU CẦU ƯỚC TÍNH CỦA THỊ TRƯỜNG THỨ CẤP

(ngàn tấn)

 

1

2

3

 

Khoản thiếu hụt tiêu thụ trong địa phương

Xuất khẩu

Tổng cầu (Cột 1 cộng cột 2)

Lúa mì a

Bắp b

Thịt heo tiêu dùng

Thịt bò tiêu dùng

3.099

5.415

729

701

1.916

2.320

347

304

5.015

7.735

1.076

1.005

a. Bao gồm bột mì chuyển thành lúa mì theo tỷ lệ: 1 thùng bột mì = 0,1430 tấn lúa mì.

b. Bao gồm bột bắp chuyển đổi thành bắp theo tỷ lệ: 1 thùng bột bắp = 0,1262 tấn ngô.

Nguồn: Xem thảo luận trong bài viết, tr. 181-84.

Có thể kiểm tra quy trình đưa ra ước tính nhu cầu lúa mì ở địa phương. Dữ liệu có sẵn trong các báo cáo của ban thương mại trong địa phương về khoản tiếp nhận và xuất khẩu của 5 thị trường thứ cấp lớn nhất. Trừ những biến động trong hàng tồn kho, các khoản tiếp nhận trừ đi lượng xuất khẩu sẽ bằng với nhu cầu tiêu thụ tại địa phương, với giả định là địa phương không trồng lúa mì. Phương pháp ước tính này không thể áp dụng cho 3 khu vực thị trường lớn nhất (New York, Philadelphia và Baltimore) bởi các khu vực này trồng lúa mì với khối lượng đáng kể, một khối lượng không xác định được chế biến tại các nhà máy của thương nhân để tiêu thụ trong địa phương, và không được ghi nhận trong số liệu thống kê của ban thương mại. Tuy nhiên, chỉ có 441 bushel lúa mì được trồng tại khu vực thị trường Boston và 120 bushel tại khu vực thị trường New Orleans, vì vậy hầu như tất cả nhu cầu lúa mì của các thị trường này có nguồn gốc bên ngoài các khu vực thị trường và được ghi nhận trong số liệu thống kê thương mại. Để loại bỏ những biến động hàng tồn kho, ta lấy khoản tiếp nhận trung bình 9 năm (điểm giữa là năm 1890) trừ đi lượng xuất khẩu. Như được thể hiện trong Bảng 3, nhu cầu địa phương ước tính theo cách này có xu hướng hỗ trợ quy trình ước tính cơ bản. Con số của khu vực thương mại New Orleans (với 64% dân số sống ở nông thôn) phát hiện rằng tiêu thụ lúa mì ở miền Nam cao hơn đáng kể hơn so với tiêu thụ nói chung9.

BẢNG 3

SO SÁNH CÁC ƯỚC TÍNH CỦA KHOẢN THIẾU HỤT TIÊU THỤ LÚA MÌ TẠI ĐỊA PHƯƠNG CHO HAI KHU VỰC KINH DOANH

 

1

2

3

 

Phương pháp 1

(cầu địa phương – (trừ) cung địa phương)

Phương pháp 2

(trung bình tiếp nhận 9 năm – (trừ) xuất khẩu)

Cột 1 = % cột 2

Boston

New Orleans

6.996

3.504

7.215

3.070

97

114

Quy trình ước tính nhu cầu bắp tương tự như trường hợp lúa mì. Điểm khác biệt quan trọng nhất là tiêu dùng của người chỉ chiếm 8% trong tổng cầu bắp. Ước tính tiêu thụ của động vật bình quân mỗi con được tính cho mỗi nhóm động vật chính10. Nhưng những con số trung bình này chỉ có sẵn ở quy mô cả nước. Nếu như có sự khác biệt trong tiêu thụ bắp của động vật theo vùng, ước tính có xu hướng phóng đại nhu cầu tại một số khu vực và nới giảm tại các khu vực khác.

Khi ước lượng nhu cầu thịt bò và thịt heo ở địa phương, trước tiên là làm biến mất con số bình quân đầu người của cả nước theo phương pháp của Bộ Nông nghiệp. Các con số của cả nước được chuyển đổi thành các ước tính bình quân đầu người trong vùng bằng cách sử dụng trọng số lấy từ nghiên cứu ngân sách năm 1901 do Cục Lao động tiến hành. Nguồn cung được xác định theo cách thức được mô tả bởi Strauss và Bean11. Bảng 2 trình bày ước tính dự kiến ​​nhu cầu thịt tại các khu vực thiếu hụt. Những con số này cũng sẽ được điều chỉnh cho sự khác biệt tiêu thụ giữa thành thị và nông thôn, nhưng việc điều chỉnh này sẽ không làm thay đổi đáng kể tổng cầu thịt của các khu vực thiếu hụt. Nghiên cứu Funk năm 1913-1914 chỉ ra rằng tiêu thụ trung bình cả thịt bò và thịt heo trong 570 gia đình nông dân miền bắc và miền nam là 157 pounds/người (người lớn tương đương) (1 pound = 0,456 kg). Dữ liệu của Sở Nông nghiệp chỉ ra rằng đối với toàn bộ dân số, con số tương ứng năm 1913 là khoảng 160 pounds/người (người lớn tương đương). Tuy nhiên, từ khi gia đình nông dân ăn thịt heo nhiều hơn đáng kể hơn so với thịt bò, việc điều chỉnh thành thị-nông thôn sẽ giảm lượng ước tính tổng thiếu hụt thịt bò và tăng tổng thiếu hụt thịt heo với tỷ lệ tương tự12.

Các nguồn chuẩn như Báo cáo Thường niên của Ủy ban Thương mại Liên tiểu bang, Bộ Tài chính Báo cáo Thương mại Nội vùng, và báo cáo của Ủy ban Aldrich cung cấp thông tin ít hơn 10% các tuyến đường liên vùng có liên quan. May mắn thay, các mức thuế nộp cho Ủy ban Thương mại Liên tiểu bang theo Đạo Luật Thương mại Liên bang năm 1887 đều có sẵn. Những hồ sơ này chứa các giá cước công bố của tất cả các tuyến đường mong muốn.

Nếu như có xuất hiện hoàn thuế (rebate), các giá cước công bố sẽ cao hơn mức thực tế. Các cuộc điều tra ở phạm vi tiểu bang và Liên bang đưa ra các báo cáo và tài liệu đồ sộ về vấn đề hoàn thuế. Những hồ sơ này chứa dữ liệu có thể được dùng để điều chỉnh một số giá cước công bố. Tiếp tục nghiên cứu các tài liệu lưu trữ có thể mang lại thông tin bổ sung. Tuy nhiên, cần phải đưa ra một số quy trình để có thể kiểm tra độ tin cậy của bằng chứng trong hồ sơ công khai và ước tính giảm giá cho những hồ sơ không còn bằng chứng trực tiếp. Một phương pháp có thể liên quan đến việc sử dụng các giá cước công bố cho một năm như năm 1910, khi nhìn chung là hoàn thuế được xóa bỏ. Loại trừ những thay đổi trong mức giá, sự sụt giảm trong các giá cước công bố trung bình giai đoạn 1890-1910 là do 2 yếu tố: xóa bỏ hoàn thuế và sự giảm giá thực tế13. Vì vậy, chênh lệch giữa giá công bố trung bình trong năm 1890 và năm 1910 (điều chỉnh cho những thay đổi trong mức giá) là mức cao nhất mà mức hoàn thuế trung bình có thể có được. Như vậy, bằng cách nhân tỷ lệ thích hợp của các giá cước trung bình từ năm 1910 tới năm 1890 với các mức giá thực tế năm 1890, sẽ có được ước tính các mức giá thực tế bình quân thấp nhất có thể có trong năm 1890.

Giao thông vận tải đường thủy theo 3 tuyến chính: Great Lakes và Erie Canal, Mississippi và tuyến liên bờ biển. Mỗi sự di chuyển từ thị trường sơ cấp đến thị trường thứ cấp có thể được chia thành di chuyển dọc theo một hoặc nhiều tuyến này, cộng với sự di chuyển ngắn bổ sung dọc theo một số hệ thống đường thủy khác. Giá cước trên các tuyến đường thủy cao tốc chính có sẵn trong báo cáo của ban thương mại, hồ sơ thuế nộp cho Ủy ban Thương mại Liên tiểu bang, và các tài liệu khác. Do đó, chỉ cần ước tính một phần nhỏ giá cước cho mỗi chủ hãng vận chuyển. Hơn nữa, không có nhiều rắc rối đối với độ lệch có thể có giữa giá cước đường thủy công bố và giá thực tế. Ở chừng mực mà những sai lệch như vậy tồn tại, độ chệch tăng của tiết kiệm xã hội ước tính sẽ được nhấn mạnh hơn nữa.

(Còn nữa)

Chú thích

(1) Mô hình thương mại này được tổng kết trong Emory R. Johnson, et al., History of Foreign and Domestic Commerce of the United States (Washington: Carnegie Institution of Washington, 1915), Parts I and II.

(2) Bảng 1 chỉ bao gồm ngũ cốc được dỡ hàng tại các thị trường sơ cấp. Khoản bổ sung được vận chuyển thông qua các thị trường thứ cấp mà không dỡ hàng. Rõ ràng là cuối cùng sẽ phải tính thêm các khoản bị bỏ qua này.

(3) U.S. Foreign and Domestic Commerce Bureau, Atlas of Wholesale Grocery Territories, Domestic Commerce Series, No.7 (1927).

(4) U.S. Foreign and Domestic Commerce Bureau, Atlas of Wholesale Grocery Trading Areas, Market Research Series, No.19 (1938).

(5) U.S. Agriculture Dept., Yearbook of Agriculture, 1923, p.1140; U. S. Statistics Bureau, Wheat Crops of the U. S., p.18.

(6) Great Britain, Board of Trade, Cost of Living in American Towns (London: H. M. Stationery Office, 1911); reprinted in U. S. Congress, Senate, Doc. 22, 62nd Cong., 1st Sess. [ser. no. 6082].

Dữ liệu cần thiết để chuyển đổi số liệu thống kê về tiêu thụ bánh mì, bánh, và mì ống thành lúa mì tương đương được lấy từ U.S. Experiment Stations Office, Bulletin, Nos. 35 (1896) and 156 (1905); cf. U.S. Agriculture Dept., Farmers Bulletin, Nos. 23, 1450; William G. Panschar and Charles C. Slater, Baking in America (2 vols.; Evanston: Northwestern University Press, 1956).Bản đánh giá thích hợp của các nghiên cứu ngân sách và chế độ ăn uống có thể tham khảo tại Faith M. Williams and Carle C. Zimmerman, Studies of Family Living in the United States and Other Countries, U.S. Agriculture Dept., Miscellaneous Publications No. 223 (1935).

(7) W. C. Funk, Value to Farm Families of Food, Fuel, and Use of House, U.S. Agriculture Dept., Bulletin No. 410 (1916), pp. 5, 18. Các con số của Funk là mức tiêu thụ cho mỗi người (người lớn tương đương), với trẻ em từ 12 tuổi trở xuống được tính là ½ người lớn. Dữ liệu của Funk đã được chuyển thành mức tiêu thụ bình quân đầu người với giả định là tỷ lệ trung bình của trẻ từ 12 tuổi trở xuống ở tất cả các gia đình trong mẫu của ông đang cư trú tại một tiểu bang cụ thể giống như tỷ lệ trẻ từ 12 tuổi trở xuống của tiểu bang trong dân số nông thôn năm 1910.

Kết quả phát hiện cho thấy tiêu thụ lúa mì trung bình ở vùng phía Nam cũng lớn bằng vùng phía Bắc đòi hỏi lời giải thích. Những lá thư, tạp chí, và nhật ký của du khách thường nhấn mạnh tầm quan trọng của bắp trong chế độ ăn uống ở phía nam. Không nhất thiết có mâu thuẫn giữa các dữ liệu được chọn lọc từ các nghiên cứu ngân sách và bài nhận định của các nhà quan sát nổi tiếng. Bắp là loại bột làm bánh mì chủ yếu trong chế độ ăn uống ở phía Nam. Trong giai đoạn nghiên cứu, người miền Nam có thể tiêu thụ trung bình hàng năm khoảng 6 bushel/người; các khu vực khác của cả nước tiêu thụ khoảng 1 bushel/người. Có thể dễ dàng nhận thấy vì sao du khách nhấn mạnh yếu tố độc đáo của chế độ ăn uống ở phía Nam, trong khi trong thực tế, lúa mì cũng được tiêu thụ với số lượng khá lớn. Các nhà sử học đã suy luận rằng do lượng bắp sử dụng là lớn bất thường nên việc tiêu thụ lúa mì phải khá nhỏ. Các nghiên cứu ngân sách đề nghị một cách diễn giải khác: trong khi bắp được thay cho lúa mì, thậm chí số lượng bắp lớn hơn đã được thay thế cho các loại hàng hóa khác, đặc biệt là các sản phẩm từ sữa. Lượng calo trung bình ở miền Nam cũng dường như lớn hơn ở miền Bắc [Edith Hawley, Economics of Food Consumption (New York: McGraw-Hill Book Co., 1932), p.75].

Tỷ lệ tiêu thụ lúa mì cao có thể là đặc trưng của vùng phía Nam trong suốt nửa cuối của thế kỷ 19. Schmidt, trong loạt bài nghiên cứu về thương mại ngũ cốc, lưu ý rằng miền Nam nhập khẩu trung bình 10 triệu bushel lúa mì mỗi năm trong thập niên dẫn đến Cuộc Nội chiến. Ông ước tính tiêu thụ lúa mì cho năm 1860 ở mức 4,5 bushel bình quân đầu người ở miền Nam, và cả nước là 5,5 bushel [Louis B. Schmidt, “The Internal Grain Trade of the United States, 1850-1860." Iowa Journal of History and Politics, XVIII, No. 1 (Jan. 1920), 101, 106].

(8) Baltimore Corn and Flour Exchange, Annual Report, 1889, 1890.

(9) Baltimore Corn and Flour Exchange, Annual Report,1890-1894; U.S. Census Bureau, Eleventh Census of the United States, Population in the United States, Part I, Tables 8 and 89; cf. note 45, above.

(10) Những ước tính này dựa trên dữ liệu trong giai đoạn 1910-1914. Các con số có liên quan: ngựa, 27,811 bushel; thịt heo (hogs), 16,568; bò sữa, 5,112; gia súc khác, 2,460; cừu, 0,413; gia cầm, 0.671. U.S. Agricultural Research Service, Consumption of Feed by Livestock, 1909-1956, Production Research Report No. 21 (Nov. 1958), pp. 28-31, 80.

(11) U.S. Agriculture Dept., Consumption of Food in the United States, 1909-1952, Agricultural Handbook No. 52 (1953); U.S. Labor Bureau, Eighteenth Annual Report of the Commissioner of Labor, Cost of Living and Retail Food Prices (1904). Frederick Strauss and Louis H. Bean, Gross Farm Income and Indices of Farm Production and Prices in the United States, 1869-1937, U.S. Agriculture Dept., Technical Bulletin No.703 (1940).

(12) Funk, Value to Farm Families of Food, pp. 5, 20; U.S. Agriculture Dept., Livestock and Meat Statistics, Statistical Bulletin No. 230 (July 1958), pp. 283, 284; U.S. Agriculture Dept., Consumption of Food in the U.S., p.197. Hai điều chỉnh cho các số liệu của Bộ Nông nghiệp được thực hiện để có thể so sánh được với số liệu của Funk: ước tính bình quân đầu người được chuyển đổi thành ước tính người lớn tương đương với giả định rằng tỷ lệ người từ 12 tuổi trở xuống năm 1913 và năm 1914 là như nhau (cf. cước chú 45); những phần thịt bò và thịt heo cắt bỏ nhưng có thể ăn được sẽ được thêm vào các số liệu của Bộ Nông nghiệp, do gia đình nông dân thường tiêu thụ tất cả các bộ phận của gia súc họ giết thịt. [Carle C. Zimmerman, Consumption and Standards of Living (New York: D. Van Nostrand, 1936), pp. 81-82].

(13) Giá cước thực tế đã giảm trong giai đoạn 1890-1910 được đề xuất bởi một thực tế là doanh thu cước trung bình mỗi tấn-dặm (được điều chỉnh cho những thay đổi trong mức giá) giảm hơn 1/3 (U.S. Census Bureau, Historical Statistics, p. 43). Tất nhiên, sự sụt giảm trong doanh thu trung bình có thể đã diễn ra mặc dù các giá cước thực tế tăng nếu có những thay đổi lớn trong thành phần của giao thông vận tải. Tuy nhiên, các dữ liệu hiện có cho thấy thành phần và mô hình giao thông vẫn tương đối ổn định trong giai đoạn này. Cf. dữ liệu trong U.S. Census Bureau, Eleventh Census of the United States: 1890, Transportation, Part I, and Interstate Commerce Commission, Twenty-Fourth Annual Report on the Statistics of Railways in the United States for the Year Ending June 30, 1911 (Washington: Govt. Printing Office, 1913).

Nguồn: “A Quantitative Approach to the Study of Railroads in American Economic Growth: A Report of Some Preliminary Findings”. The Journal of Economic History 22 (2). Cambridge University Press: 163–97.

Nguồn dịch: Phân tích kinh tế: Cách tiếp cận định lượng trong việc nghiên cứu vai trò của đường sắt đối với tăng trưởng kinh tế Mỹ