Biện chứng là gì? (Phần 3/3)

Biện chứng là gì? (Phần 3/3)

Bài viết phê phán phép biện chứng kinh điển này của Karl Popper được tác giả đọc tại một seminar về triết học tại Canterbury University College, Christchurch, New Zealand, năm 1937. Xuất bản lần đầu trên Mind, n.s., 49, 1940. Bản dịch tiếng Việt được thực hiện từ bản in lại trong Popper, Karl, Conjectures and Refutations: the Growth of Scientific Knowledge, 1989, 5ed, Routledge: London, pp. 312-35.

- Thị Trường Tự do Academy

(Tiếp theo Phần 2)

3. Biện chứng sau Hegel

"Tư duy cho rằng các thực tế hay các sự kiện có thể mâu thuẫn lẫn nhau, đối với tôi là một loại hệ hình tư duy hết sức nông cạn." - David Hilbert


Triết lý của Hegel về sự đồng nhất giữa lý tính và hiện thực đôi khi bị xem là duy tâm (tuyệt đối), bởi vì nó phát biểu rằng hiện thực tựa-như-tâm-trí hoặc mang đặc điểm của lý tính. Nhưng rõ ràng là, một triết lý biện chứng về sự đồng nhất như thế có thể dễ dàng biến ngược thành một loại chủ nghĩa duy vật. Những người trung thành với triết thuyết đó có thể sẽ lập luận rằng hiện thực trên thực tế có đặc tính vật chất hoặc vật lý, giống như cách suy nghĩ của người bình thường; và bằng cách nói rằng nó đồng nhất với lý tính, hoặc tâm trí, ai đó có thể sẽ nghĩ rằng tâm trí cũng là một hiện tượng vật chất hoặc vật lý – hoặc nếu không, thì sự khác biệt giữa hiện tượng tâm trí và vật lý không thể nào lại là một vấn đề cực kỳ quan trọng.

Chủ nghĩa duy vật này có thể được xem như là sự hồi sinh những khía cạnh nhất định của chủ nghĩa Descartes, với sự cải biên bằng cách kết nối với phép biện chứng. Nhưng khi vứt bỏ đi cái nền tảng duy tâm chủ nghĩa của nó, phép biện chứng mất tất cả những thứ khiến nó có vẻ đáng tin cậy và có thể hiểu được; chúng ta cần phải nhớ rằng những lập luận tốt nhất biện minh cho phép biện chứng nằm ở khả năng ứng dụng của nó để mô tả sự phát triển của tư duy, đặc biệt là tư duy triết học. Giờ đây, chúng ta ngã ngửa ra với tuyên bố rằng hiện thực trong thế giới vật lý phát triển một cách có biện chứng – một nhận định cực kỳ giáo điều với quá ít luận chứng khoa học ủng hộ đến nỗi các nhà biện chứng duy vật bắt buộc phải sử dụng một cách lỏng lẻo cái phương pháp nguy hiểm mà chúng ta đã mô tả theo đó sự phê phán sẽ bị loại bỏ vì nó không biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do đó chấp nhận các điểm (a) và (b) như đã trình bày ở trên, nhưng nó thay đổi điểm (c) đáng kể, mặc dù tôi cho rằng nó cũng chẳng mang lại cái gì tốt đẹp hơn cho các đặc điểm biện chứng của nó. Để làm sáng tỏ ý này, tôi muốn nhấn mạnh một điểm là: mặc dù tôi không xem tôi như là một nhà duy vật, phê phán của tôi không hướng trực tiếp tới việc chống lại chủ nghĩa duy vật, học thuyết mà có lẽ cá nhân tôi có thiện cảm hơn so với chủ nghĩa duy tâm nếu như tôi bắt buộc phải lựa chọn giữa chúng (may mắn thay tôi không phải làm như vậy). Đối với tôi, sự kết hợp giữa biện chứng với chủ nghĩa duy vật mới chính là thứ thậm chí còn tồi dở hơn cả chủ nghĩa duy tâm biện chứng.

Cụ thể, những lưu ý đó đúng với “chủ nghĩa duy vật biện chứng” được phát triển bởi Marx. Có thể tương đối dễ dàng tái thiết lập yếu tố duy vật chủ nghĩa trong lý thuyết này theo một cách thức khiến cho không thể nào đưa ra được các phản bác đáng kể nào chống lại nó. Với những gì tôi biết thì điểm chính của nó là thế này: không có lý do gì để giả định rằng trong khi các ngành khoa học tự nhiên có thể tiến hành nghiên cứu dựa trên cái nhìn hiện thực của con người bình thường thì các ngành khoa học xã hội lại phải cần nền tảng duy tâm chủ nghĩa giống như thứ được Hegel đề xuất. Một giả định như vậy thường được đưa ra vào thời đại của Marx, xuất phát từ thực tế là Hegel với lý thuyết duy tâm chủ nghĩa của mình về Nhà Nước đã tạo ra sự ảnh hưởng mạnh mẽ tới các ngành khoa học xã hội, trong khi những quan niệm của ông về các ngành khoa học tự nhiên lại hoàn toàn vô bổ – ít nhất là đối với các nhà khoa học tự nhiên.1 Tôi nghĩ rằng hoàn toàn công bằng khi diễn giải các ý tưởng của Marx và Engels rằng một trong những quan tâm chủ yếu của họ khi nhấn mạnh đến chủ nghĩa duy vật là gạt bỏ bất kỳ lý thuyết nào mà, liên quan đến bản chất lý tính hoặc tinh thần của con người, khẳng định rằng xã hội học tất phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm hoặc chủ nghĩa tinh thần, hoặc dựa trên sự phân tích về lý tính. Ngược lại, họ đã nhấn mạnh đến khía cạnh vật chất của bản chất con người – chẳng hạn nhu cầu của chúng ta về thức ăn và các hàng hoá vật chất khác – và vai trò của vật chất đối với xã hội học.

Không nghi ngờ gì, quan điểm này có căn cứ; và tôi ghi nhận những đóng góp của Marx về điểm này là có ý nghĩa thực sự và có ảnh hưởng lâu dài. Mọi người đều học được từ Marx rằng sẽ không thể hiểu được hoàn toàn sự phát triển của ngay cả các ý tưởng nếu như xem xét lịch sử các ý tưởng (dù rằng một xem xét như thế thường có thể có những giá trị vĩ đại của riêng nó) mà lại không đề cập đến các điều kiện về nguồn gốc phát sinh của chúng và hoàn cảnh của những người phát kiến ra chúng, và trong số các điều kiện đó khía cạnh kinh tế là quan trọng đáng kể. Tuy nhiên, cá nhân tôi nghĩ rằng chủ nghĩa kinh tế của Marx – sự nhấn mạnh của ông về nền tảng kinh tế như là cơ sở cao nhất cho bất kỳ loại phát triển nào – là sai lầm và trên thực tế không đứng vững được. Tôi nghĩ rằng kinh nghiệm xã hội rõ ràng chỉ ra rằng, dưới những hoàn cảnh nhất định, ảnh hưởng của các ý tưởng (có lẽ được trợ giúp bởi hoạt động tuyên truyền) có thể vượt quá và lần át các lực lượng kinh tế. Ngoài ra, cứ cho là chúng ta không thể hiểu được đầy đủ những quá trình phát triển của tâm trí nếu như không có sự hiểu biết về nền tảng kinh tế của chúng, thì chúng ta chí ít cũng không thể hiểu được những quá trình phát triển kinh tế nếu như không hiểu được sự phát triển của, chẳng hạn, các ý tưởng khoa học và tôn giáo.

Vì mục đích của chúng ta ở đây, việc phân tích chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh tế của Marx không quan trọng bằng việc xem xét các yếu tố cấu thành phép biện chứng trong hệ thống của ông. Đối với tôi có hai điểm quan trọng. Một là Marx nhấn mạnh đến phương pháp lịch sử trong xã hội học, một khuynh hướng mà tôi đã gọi là “chủ nghĩa duy lịch sử” (historicism). Cái kia là khuynh hướng chống lại sự giáo điều trong phép biện chứng của Marx.

Để hiểu được điểm đầu tiên, chúng ta cần phải lưu ý rằng Hegel là một trong những nhà phát minh ra phương pháp lịch sử, là cha đẻ trường phái các nhà tư tưởng tin rằng khi ai đó mô tả một quá trình phát triển trên phương diện lịch sử thì anh ta đã giải thích quá trình đó một cách nhân quả. Trường phái này tin rằng ai đó, chẳng hạn, có thể giải thích các thể chế xã hội nhất định bằng cách chỉ ra loài người đã dần dần phát triển chúng như thế nào. Ngày nay, người ta nói chung nhận ra rằng vai trò của phương pháp lịch sử đối với lý thuyết xã hội đã bị thổi phồng quá mức; điều này không có nghĩa là niềm tin vào phương pháp này đã biến mất. Tôi đã cố gắng phê phán phương pháp này ở nơi khác (đặc biệt trong cuốn sách của tôi The Poverty of Historicism [Sự nghèo nàn của chủ nghĩa duy lịch sử – ND]. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng xã hội học của Marx đã bắt trước Hegel không chỉ cái quan niệm rằng phương pháp luận của nó phải là phương pháp lịch sử, và rằng xã hội học cũng như sử học phải trở thành các lý thuyết về sự phát triển của xã hội, mà còn cả cái quan niệm rằng quá trình phát triển này phải được giải thích dưới góc độ biện chứng. Đối với Hegel, lịch sử là lịch sử của các ý tưởng. Marx vứt bỏ chủ nghĩa duy tâm nhưng giữ lại học thuyết của Hegel đối với ý tưởng cho rằng các lực lượng động của sự phát triển lịch sử là “các mâu thuẫn”, “các phủ định”, “các phủ định của phủ định” của biện chứng. Xét trên khía cạnh này thì thực sự là Marx và Engels đã bám rất sát Hegel, như được minh hoạ trong các trích đoạn sau đây. Trong cuốn Encyclopaedia (Phần I, chương VI, tr. 81) Hegel đã mô tả Biện chứng như là “lực vũ trụ và có sức hút mạnh mẽ , đứng trước nó không cái gì có thể trụ vững được, bất kể cái đó tự cho là nó an toàn và ổn định”. Tương tự, Engels viết (Anti-Dühring, Phần I, “Biện chứng: Phủ định của phủ định”): “Vậy thì cái gì là phủ định của phủ định? Một qui luật tổng quát cao độ của sự phát triển của Tự nhiên, lịch sử và tư duy; một qui luật mà đúng trong vương quốc của động vật và thực vật, trong địa chất học, trong toán học, trong lịch sử, và trong triết học”.

Theo quan niệm của Marx, nhiệm vụ trọng tâm của ngành khoa học xã hội học là phải chỉ ra những lực lượng biện chứng này vận động trong lịch sử như thế nào, và do đó phải tiên tri được quá trình của lịch sử; hoặc, như ông viết trong lời tựa của cuốn Capital [Tư bản luận – ND], “mục đích cuối cùng của tác phẩm này là lột trần qui luật kinh tế của sự vận động của xã hội hiện đại”. Và qui luật biện chứng của sự vận động, qui luật phủ định của phủ định, trang bị cho Marx cơ sở để tiên tri về sự diệt vong đang treo lơ lửng trên đầu của chủ nghĩa tư bản (Capital, I, chương XXIV, § 7): “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa… là sự phủ định lần thứ nhất… Nhưng, như là một qui luật Tự nhiên không thể tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản sinh ra sự phủ định của chính nó. Đó chính là sự phủ định của phủ định”.

Tất nhiên tiên tri không có nghĩa là phi khoa học, giống như các tiên đoán về các sự kiện nhật thực và các sự kiện thiên văn khác chỉ ra. Nhưng biện chứng của Hegel, hay phiên bản duy vật chủ nghĩa của nó, không thể được xem như là một nền tảng đúng đắn cho các dự báo khoa học. (“Nhưng tất cả các tiên đoán của Marx đều trở nên đúng”, các nhà Marxist thường trả lời. Thực ra thì chúng không hề. Hãy xem một trích đoạn trong vô số đoạn làm ví dụ: Trong cuốn Capital, ngay sau đoạn trích sau cùng ở trên, Marx đã nói rằng sự chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội sẽ là một quá trình “ngắn hơn, ít bạo động hơn, và ít khó khăn hơn” đến không ngờ so với cuộc cách mạng công nghiệp, và trong một chú thích ông đã thổi phồng dự đoán này bằng cách đề cập đến việc “giai cấp tư bản lừng chừng và thiếu kiên định”. Ngày nay, có rất ít các nhà Marxist còn nói rằng những tiên đoán này là đúng đắn). Do vậy, nếu tiến hành các các dự đoán dựa trên phép biện chứng thì một số sẽ trở nên đúng và một số sẽ trở nên sai. Trong trường hợp sau, hiển nhiên sẽ làm nảy sinh một tình huống không biết trước được. Nhưng phép biện chứng đủ mơ hồ và linh động đến mức có thể lý giải và giải thích tình huống không biết được trước này cứ như là nó đã lý giải và giải thích cái tình huống mà nó đã tiên đoán đúng. Bất kỳ quá trình phát triển nào đều khớp với giản đồ biện chứng; nhà biện chứng không bao giờ e sợ bất kỳ sự bác bỏ nào xảy ra trong tương lai.2 Như đã đề cập ở trên, không chỉ cách tiếp cận biện chứng, mà cả ý tưởng về một lý thuyết về sự phát triển của lịch sử – ý tưởng rằng ngành khoa học xã hội học phải hướng tới các dự báo lịch sử ở tầm khái quát – là sai lầm. Nhưng đây là điều mà chúng ta không quan tâm ở đây.

Chia tay với vai trò mà phép biện chứng chiếm giữ trong phương pháp lịch sử của Marx, chúng ta chuyển đến xem xét thái độ chống giáo điều của Marx. Marx và Engels nhấn mạnh rằng khoa học không nên được xem như là một hệ thống tri thức cuối cùng, đã được hoàn thiện, hoặc là một hệ thống “sự thật vĩnh hằng”, mà là một cái gì đó phát triển, lũy tiến. Nhà khoa học không phải là người biết nhiều mà là người kiên định, quyết không từ bỏ việc tìm kiếm sự thật. Các hệ thống khoa học phát triển; và theo Marx, chúng phát triển một cách biện chứng.

Không phải nói gì nhiều về điểm này – mặc dù cá nhân tôi nghĩ rằng mô tả biện chứng về quá trình phát triển của khoa học không phải luôn luôn thích hợp trừ phi cố ý áp đặt, và rằng tốt nhất nên mô tả quá trình phát triển khoa học theo một cách thức ít tham vọng và ít mơ hồ hơn, chẳng hạn, dưới góc độ của lý thuyết thử-và-sai. Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận rằng phê phán này không đáng kể lắm. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, thái độ cấp tiến và chống giáo điều của Marx đối với khoa học không khi nào được các nhà Marxist chính thống chấp nhận trong lĩnh vực hoạt động của chính họ. Khoa học cấp tiến, chống giáo điều là khoa học mang tính phê phán – phê phán là đời sống thực thụ của nó. Nhưng các nhà Marxist không khi nào chấp nhận bao dung sự phê phán chủ nghĩa Marx, phê phán chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Hegel nghĩ rằng triết học phát triển; dù thế, hệ thống triết học của chính ông phải được xem là giai đoạn cao nhất và cuối cùng của quá trình phát triển này và không thể bị hệ thống nào khác vượt qua. Các nhà Marxist bắt chước thái độ đó đối với hệ thống Marxist. Do vậy, thái độ chống giáo điều của Marx chỉ tồn tại trên lý thuyết chứ không phải trên thực tiễn của chủ nghĩa Marx chính thống, và phép biện chứng được các nhà Marxist, tiếp nối cuốn Anti-Dühring tiêu biểu của Engels, sử dụng chỉ vì mục đích chống chế (apologetics) – để bảo vệ hệ thống Marxist chống lại các phê phán. Đã thành lệ, các nhà phê phán bị lên án là họ đã không hiểu phép biện chứng, hoặc khoa học của giai cấp vô sản, hoặc họ bị lên án là những kẻ phản bội. Nhờ có phép biện chứng, thái độ chống giáo điều đã biến mất, và chủ nghĩa Marx đã tự biến nó thành một chủ nghĩa giáo điều đủ linh động, bằng cách sử dụng phương pháp biện chứng của mình, để đè bẹp bất kỳ cuộc tấn công tiếp theo nào. Do đó, nó đã trở thành cái mà tôi đã gọi là chủ nghĩa giáo điều được gia cố.

Đúng là không có vật cản tồi tệ hơn nào đối với sự phát triển của khoa học bằng một chủ nghĩa giáo điều được gia cố. Sẽ không có bất kỳ sự phát triển khoa học nào nếu như không có cạnh tranh tự do về tư tưởng – đây là cốt lõi của thái độ chống giáo điều đã từng được Marx và Engels ủng hộ mạnh mẽ; và nói chung không thể có cạnh tranh tự do trong tư duy khoa học nếu không có tự do đối với mọi tư tưởng.

Do đó phép biện chứng đã tạo ra sự bất hạnh khủng khiếp, không chỉ đối với sự phát triển của triết học, mà còn cả sự phát triển của lý thuyết chính trị. Chúng ta có thể hiểu được đầy đủ vai trò đáng tiếc này dễ dàng hơn nếu chúng ta xem xét căn nguyên của việc Marx đã tiến tới phát triển một lý thuyết như vậy như thế nào. Chúng ta phải xem xét toàn bộ bối cảnh. Marx, một thanh niên trẻ, có đầu óc cấp tiến, cầu tiến và thậm chí cách mạng, đã rơi vào vòng ảnh hưởng của Hegel, triết gia Đức nổi tiếng nhất. Hegel lúc đó đã là một đại diện cho trào lưu phản động của nước Phổ. Ông đã sử dụng nguyên lý về sự đồng nhất giữa lý tính và hiện thực của mình để cổ vũ những thế quyền hiện hành – vì cái gì mà tồn tại tất phải hữu lý – và để bảo vệ cho ý tưởng về Nhà Nước Tuyệt Đối (một ý tưởng mà ngày nay được gọi là “chủ nghĩa toàn trị”). Marx, người đã ngưỡng mộ Hegel, nhưng lại có một tư chất chính trị khác hẳn, đang cần một triết lý để làm cơ sở cho các quan điểm chính trị của mình. Chúng ta có thể hiểu được ông đã hân hoan như thế nào khi phát hiện ra rằng triết học biện chứng của Hegel có thể dễ dàng xoay ngược thành vũ khí để chống lại người thầy của mình – rằng phép biện chứng phù hợp cho một một lý thuyết chính trị cách mạng, thay vì là một lý thuyết bảo thủ và chống chế. Bên cạnh điều này, nó cực kỳ phù hợp với nhu cầu của ông trong việc xây dựng một lý thuyết không chỉ mang tính cách mạng, mà còn cả lạc quan nữa – một lý thuyết dự đoán được sự tiến triển bằng cách nhấn mạnh rằng mọi bước đi mới là một bước tiến về phía trước.

Phát hiện này, dù không phủ nhận là khó có thể cưỡng lại được đối với một môn đồ của Hegel tại kỷ nguyên mà Hegel ngự trị, giờ đây, cùng với chủ nghĩa Hegel, đã mất hết mọi vai trò, và nó hầu như không còn có thể được xem như là một cái gì đó hơn là một tour de force (thành tựu) sáng dạ của một sinh viên trẻ xuất sắc, người đã làm lộ ra điểm yếu trong các tư biện của người thầy không đáng được xem như là nổi tiếng của mình. Nhưng nó đã trở thành nền tảng lý thuyết cho cái gọi là “chủ nghĩa Marx khoa học”. Và nó đã góp phần biến chủ nghĩa Marx thành một hệ thống giáo điều ngăn cản mọi quá trình phát triển khoa học đáng lẽ có thể diễn ra. Vì thế, trong nhiều thập kỷ, chủ nghĩa Marx đã giữ thái độ giáo điều của mình, lặp lại việc chống các đối thủ của mình với cùng những lý lẽ mà đã được các vị sáng lập của nó sử dụng trước đây. Thật đáng buồn, nhưng nó giúp chúng ta hiểu rõ vì sao chủ nghĩa Marx chính thống ngày nay lại chính thức khuyến nghị người đọc nên xem cuốn Logic của Hegel như là cuốn sách nền tảng để nghiên cứu phương pháp luận khoa học – thứ không những chỉ cổ xưa mà còn tiêu biểu cho các cách thức tư duy tiền khoa học và thậm chí tiền logic. Nó còn tồi tệ hơn cả việc khuyến nghị coi cơ học của Archimedes như là nền tảng của ngành công trình hiện đại.

Toàn bộ quá trình phát triển của phép biện chứng nên được nhìn nhận như là một cảnh báo nguy hiểm tiềm ẩn trong công cuộc xây dựng triết học một cách có hệ thống. Nó nhắc nhở chúng ta rằng không nên coi triết học như là nền tảng của bất kỳ một hệ thống khoa học nào và các triết gia nên khiêm nhường hơn với những gì họ tuyên bố. Một nhiệm vụ mà họ có thể đảm đương tốt được là nghiên cứu về các phương pháp khoa học phê phán.


Chú thích:

1Ít nhất thì nó cũng hiển nhiên đối với ai đọc, chẳng hạn, đoạn phân tích đáng kinh ngạc sau đây về bản chất của điện. Tôi đã cố gắng dịch nó ở mức độ tốt nhất có thể, thậm chí có thể khiến nó trở nên dễ hiểu hơn so với nguyên gốc của Hegel:
“Điện là mục đích của cái hình thức từ đó nó tự giải thoát, nó là cái hình thức mà chỉ có khuynh hướng vượt qua sự lãnh đạm của chính nó; vì rằng, điện là sự xuất hiện tức thời, hoặc hiện thực vừa mới xuất hiện, từ sự gần cận (proximity) của cái hình thức, và vẫn còn được định đoạt bởi chính nó – tuy nhiên, vẫn chưa tự rũ bỏ đi cái hình thức, mà vẫn chỉ là cái quá trình tương đối hời hợt qua đó những khác biệt làm tan biến cái hình thức mà, tuy vậy, chúng vẫn tiếp tục duy trì, như là điều kiện của chúng, sự không còn phát triển thành sự độc lập của và qua chúng”. (Không nghi ngờ gì nó đáng ra phải là “của và qua nó”; nhưng tôi hy vọng rằng điều này không gây ra sự khác biệt đáng kể nào đối với những sự khác biệt). Đoạn trích được lấy từ Philosophy of Nature của Hegel. Cũng xem các đoạn trích về Âm thanh và Nhiệt, được đưa vào trong cuốn Open Society của tôi tại chủ thích số 4 trong chương 12.


2Trong L.Sc.D. tôi đã cố gắng chỉ ra rằng nội dung khoa học của một lý thuyết càng lớn thì lý thuyết đó truyền tải càng nhiều [nội dung], lý thuyết càng rủi ro thì nó càng dễ bị bác bỏ bởi kinh nghiệm tương lai. Nếu nó không chấp nhận rủi ro nào như vậy, nội dung khoa học của nó sẽ là con số không – nó không có nội dung khoa học, nó chỉ là siêu hình. Bằng tiêu chuẩn này chúng ta có thể nói rằng phép biện chứng là phi khoa học: nó là siêu hình.

Dịch giả:
Đinh Tuấn Minh